Friday, February 28, 2025

Đài Tiếp Vận Hickory thất thủ -Victor Claveau vđh (chuyển ngữ)

Trong miền Nam Việt Nam, nơi cực Tây bắc, một cái “yên ngựa” giữa hai đỉnh núi cao, trong khu vực kiểm soát của Quân đội Bắc Việt. Bộ chỉ huy Bắc (CCN) bí mật thiết lập một đài Tiếp vận truyền tin để liên lạc với các toán Biệt kích SOG hoạt động trên đất Lào. Đài tiếp vận Hickory nằm trên một đỉnh núi cao, nơi hướng Bắc căn cứ Khe Sanh 2,5 dặm. Hai căn cứ bạn gần nhất là căn cứ hỏa lực Fuller và Carroll cách khoảng 20 dặm về hướng Đông.
Mặc dầu… chỉ là đài Tiếp vận truyền tin (Viễn thông), nhưng trong đó có một đài bí mật, chuyên môn theo dõi nghe ngóng, chận bắt những làn phát sóng của Quân đội Bắc Việt. Căn cứ chỉ rộng khoảng 30 thước, dài 80 thước, do 27 Quân nhân Hoa Kỳ và 67 Binh sĩ Biệt kích người Thượng trấn giữ, bảo vệ. Nhóm Quân nhân này bao gồm các đơn vị : SOG, kiểm thính viên, và một Tiểu đội thuộc Đại đội L, Trung đoàn 75 Biệt Động Quân Hoa Kỳ. Đơn vị SOG dưới quyền chỉ huy của Trung sĩ Jon Cavaiani, phụ tá là Trung sĩ John Jones.
Sự đe dọa của địch không phải là điều mới lạ, hay ngạc nhiên. Các phân tích gia trong Saigon đã báo động từ mấy tuần lễ trước, Quân đội Bắc Việt đang chuyển quân đến bao vây đài tiếp vận nhỏ bé. Trung tá Mike Radke cho biết, chuyện tấn công chắc chắn sẽ xảy ra, ông ta kể lại “Tôi tiên đoán Quân đội Bắc Việt sẽ tấn công trong vòng 72 tiếng đồng hồ, nhưng địch quân đã tấn công trong vòng 24 tiếng”. Vì tầm mức quan trọng, đơn vị SOG cố gắng giữ đài Tiếp vận.
Rạng đông ngày 4 tháng Sáu năm 1971, người lính (Thượng) canh gác chỉ cho Trung sĩ Cavaiani thấy một điều lạ nơi hàng rào Concertina phòng thủ đài tiếp vận Hickory. Đó là một quả mìn định hướng Claymore do Trung Cộng sản xuất, tìm kiếm xung quanh, họ tìm ra thêm mười quả mìn khác. Địch quân lợi dụng trời mưa to đêm trước đã bò lên gài mìn. Cavaiani cầm khẩu đại liên M-60 bắn phá được sáu quả mìn, rồi một quả phát nổ, làm mấy Binh sĩ bị thương. Rồi thêm một quả khác nổ làm bị thương thêm một số khác, Trung sĩ John Jones cũng bị thương nhẹ.
Cách đỉnh núi nơi đặt đài tiếp vận khoảng 60 thước, Quân đội Bắc Việt đã đào hầm hố, công sự chiến đấu. Ở trên bắn xuống là có tiếng súng đại liên, súng cối, cùng súng phóng hỏa tiễn B-40 bắn lên trả đũa. Trong khi một cặp, hai phản lực F4 Phantom bắn phá các mục tiêu xung quanh tuyến phòng thủ Quân đội Bắc Việt, Cavaiani gặp một người kiểm thính viên trẻ tên là Walter Milsap trong pháo đài có khẩu đại liên 50. Cavaiani nhìn người lính Hoa Kỳ đeo kính cận thị nặng, hỏi anh ta “Anh làm gì vào đây ?”. Người chuyên viên kiểm thính, dò đài của địch trả lời : “Tôi vào đây để xử dụng khẩu đại liên”. Cavaiani nghĩ thầm… Có nhiều người không biết… phải làm gì ? Cavaiani cho một Binh sĩ Thượng vào phụ với anh ta xử dụng khẩu đại liên, rồi đi quanh phòng tuyến, xem xét lại việc phòng thủ.
Lúc đó trong đài tiếp vận đã có khoảng chục người bị thương. Cavaiani đang xem xét thương binh, chợt nghe tiếng nổ đạn B-40 trúng vào pháo đài có khẩu đại liên 50, anh ta vừa mới đi ra. Nhìn lên, Cavaiani trông thấy anh lính Milsap đã bị thương đang cố vác khẩu đại liên đặt vào vị trí cũ (bị sức ép rơi xuống đất).
Thêm một quả B-40 nữa làm bị thương một Đại úy Hoa Kỳ, rồi một quả đạn súng cối nổ làm chấn động đài Tiếp vận. Càng lúc càng có thêm người bị thương bì đạn súng cối, B-40, mảnh đạn không tha một ai, các Quân nhân bị thương đủ cả thành phần, đơn vị : Mỹ, LLĐB/VN, Thượng. Tình trạng này kéo dài, đài tiếp vận sẽ không chịu nổi những trận pháo kích của Quân đội Bắc Việt, Cavaiani ra lệnh di tản, bắt đầu lúc sớm chiều.
Khi trực thăng đến di tản, Cavaiani cõng viên Đại úy bị thương ra máy bay, cùng với thương binh đi trước. Chiếc trực thăng thứ hai đáp xuống, Cavaiani “nhét” vào bụng chiếc máy bay càng nhiều Quân nhân Hoa Kỳ càng tốt, kể cả Milsap. Nhung khi chiếc trực thăng cất cánh, anh ta vẫn còn đó, không muốn đi trước đồng đội.
Trong khi chờ đợi chuyến kế tiếp, Cavaiani ra lệnh cho Jones và Milsap phá hủy chiếc xe van chở dụng cụ truyền tin để bắt làn sóng truyền tin Quân đội Bắc Việt cùng những dụng cụ đặc biệt. Khoảng 4:30 chiều, một chiếc trực thăng đến, gọi máy liên lạc cho Cavaiani chuẩn bị với một lời ngắn gọn : “Đây là chuyến trực thăng cuối cùng cho bẩy người”. Cavaiani lớn tiếng phản đối, dưới quyền anh ta vẫn còn con số đông gấp bốn lần ! Đơn vị SOG không bỏ rơi những Biệt kích quân người Thượng của mình, và anh ta không muốn là người đầu tiên làm chuyện này. Cavaiani đã làm đúng lời nói danh dự của mình, đưa Milsap cùng với 6 người lính Thượng lên chiếc trực thăng cuối cùng.
Đến lúc đó, Cavaiani đã di tản được 68 người, trong đó có 15 người bị thương. Trong đài Tiếp vận còn lại 19 Biệt kích quân Thượng, bốn Quân nhân LLĐB/VN, Jones (bị thương nhẹ) và Cavaiani. Anh ta vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra… Vẫn chưa đến 5:00 giờ chiều, thời tiết rất tốt, trong sáng… và đơn vị SOG không xin được trực thăng để di tản ! Điều này khó hiểu !
Sau đó một trực thăng cấp cứu CH-53 Jolly Green thuộc Không Lực Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan trên đường đến đài tiếp vận Hickory. Nhưng khi chiếc Sikorsky còn cách bảy dặm, viên phi công liên lạc cho biết, chiếc trực thăng phải quay về, nếu không anh ta sẽ bị đưa ra trước Tòa án Quân sự.
Chuyện bỏ rơi Quân nhân đơn vị SOG do Sĩ quan cao cấp trong một Sư đoàn có nhiệm vụ biệt phái một đơn vị trực thăng cho đơn vị SOG xử dụng. Ông Tướng này đã ra lệnh chấm dứt yểm trợ cho đơn vị SOG lúc 5:00 giờ chiều. Khi ông ta biết được, Bộ chỉ huy SOG trong Saigon qua “tần số nội bộ”, xin được chiếc “Jolly Green” CH-53, Sikorsky từ bên Thái Lan (Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ), ông ta liên lạc thẳng với bộ tư lệnh MACV… và chiếc trực thăng khổng lồ, Jolly Green phải quay trở về Thái Lan.
Chuyện xảy ra trước đó khoảng hai tuần lễ, khi một Sĩ quan cao cấp trong Bộ tư lệnh Sư đoàn, ra lệnh cho đơn vị SOG hoàn trả lại phi đoàn trực thăng đang biệt phái cho Bộ chỉ huy Bắc (CCN). Điều này không thể được, đúng lúc đó các toán Biệt kích SOG đang chiến đấu cho mạng sống của họ trên đất Lào. Đại tá Pezzelle nói rằng, viên Sĩ quan Lục Quân không hiểu thế nào là Chiến Tranh Ngoại Lệ.
Mặc dầu Đại tướng Creighton Abrams, Tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV, lên thay Tướng Westmoreland) đã ra lệnh, Sư đoàn Bộ Binh (có thể là Sư đoàn 101 Nhẩy Dù, hoặc TQLC/HK) phải cung cấp trực thăng cho đơn vị SOG. Nhưng viên Sĩ quan Bộ Binh cao cấp biết đi đường vòng. Đại tá đơn vị SOG Pezzelle nói rằng “Họ có nhiều cách để từ chối, viện lý do này, lý do nọ… Trực thăng không có sẵn… Chúng tôi gặp trở ngại trong vấn đề bảo trì… Nhiều trực thăng bị trúng đạn rơi, hoặc hư hại…”
Đại tá Pezzelle cùng với vị chỉ huy trưởng đơn vị SOG đã nhiều lần lên gặp Tướng Abrams, trình bày vấn đề… Nhưng Tướng Abrams chỉ muốn đơn vị SOG “tự giải quyết” vấn đề !
Kết quả việc tranh chấp này đưa đến “thảm họa” ngày 4 tháng Sáu năm 1971 nơi đài Tiếp vận Hickory. Cavaiani cùng với Jones cứ đưa mắt nhìn lên trời, mong đợi trực thăng đến di tản, nhưng trực thăng sẽ không bao giờ đến nữa. Lúc trời sắp tối, Cavaiani trao máy truyền tin cho Jones rồi đi một vòng quan sát, tổ chức vấn đề phòng thủ. Đài Tiếp vận có hình dáng như cái “yên ngựa”, đỉnh cao hai bên, chỗ trũng ở giữa là bãi đáp trực thăng. Không đủ người phòng thủ, Cavaiani ra lệnh rút lên phòng thủ đỉnh núi phía Bắc.
Đến 7:00 giờ tối, mặt trời đã khuất sau ngọn núi Cơ Rốc, bầu trời trở nên đen tối với lớp sương bao phủ đài tiếp vận Hickory. Một phi cơ AC-119 Stinger (Hỏa Long) thuộc Không Lực Hoa Kỳ lên bao vùng. Tiếp theo là tiếng nổ lớn của quả mìn phòng thủ, rồi bóng đêm trở lại với sự im lặng của tử thần. Phi cơ AC-119 không thể tác xạ được vì lớp sương che phủ quá dày, không nhìn rõ ở dưới.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, những toán lính Bắc Việt bắt đầu di chuyển vào bãi đáp trực thăng. Đơn vị phòng thủ bắn xuống, nhưng quân Bắc Việt chỉ khựng lại ít lâu, rồi tiếp tục tiến băng qua bãi đáp, áp sát vào chân đỉnh núi phía Bắc. Cavaiani ra lệnh tất cả lui vào bên trong pháo đài. Khi các Biệt kích quân Thượng vừa lui, địch quân tấn công, một viên đạn AK-47 trúng sớt qua lưng Cavaiani, nhưng vết thương không nặng.
Vào bên trong pháo đài, Cavaiani yêu cầu phi cơ AC-119 oanh kích ngay trên đầu toán quân Biệt kích vì lính Bắc Việt đã bao vây tràn ngập, và các Biệt kích quân đã vào bên trong pháo đài kiên cố. Nhưng viên phi công từ chối vì lý do an toàn cho quân bạn. Cavaiani yêu cầu thêm lần nữa, xin hoàn toàn chịu trách nhiệm, nhưng viên phi công AC-119 vẫn từ chối.
Lính Bắc Việt đi từng căn hầm ném lựu đạn vào. Một quả lựu đạn rơi vào trong pháo đài, nơi những Biệt kích quân còn lại đang tử thủ, nổ dữ dội làm Jones bị thương nặng. Anh ta nói với Cavaiani : “Đủ rồi Jon, tôi ra đầu hàng”. Nói xong Jones bò ra khỏi căn hầm, rồi một loạt đạn AK-47 nổ vang, Jones rơi trở vào bên trong, chết. Thêm một quả lựu đạn nữa ném vào trong hầm, sức ép làm Cavaiani bất tỉnh.
Đến khi Cavaiani tỉnh lại, trong bóng tối đen như mực, anh ta biết mình bị thêm một vết thương nơi chân, và hai lỗ tai chảy máu vì sức ép quả lựu đạn. Quân Bắc Việt đã rút đi, Cavaiani gượng đứng dậy lết ra khỏi đài tiếp vận hoang tàn đổ nát, từ từ đi xuống núi, ra khỏi rặng núi Cơ Rốc.
Cứ như thế, trong mười ngày kế tiếp, Cavaiani vừa bò, vừa lết đến căn cứ hỏa lực Fuller, đơn vị bạn gần nhất. Lúc đó gần 3:00 giờ sáng, anh ta kiệt sức, định ngủ một giấc, đợi đến sáng mới vào căn cứ trình diện (cho an toàn, sợ bị bắn lầm). Mờ sáng hôm sau, năm người lính Bắc Việt dí mũi súng AK vào lưng Cavaiani dẫn đi… qua Lào trở thành tù binh.
Quân đội Bắc Việt dùng xe vận tải chở Cavaiani, hai Biệt kích Thượng và một người thông ngôn đến Vinh, rồi từ đó lên xe lửa ra Hà Nội. Đến tháng Ba năm 1973, Cavaiani được trao trả trong chương trình “Trở Về” (Home coming). Anh ta được ân thưởng Huy chương Danh Dự (Medal of Honor) năm 1974.
Dallas, TX.
vđh (chuyển ngữ)

 

Thursday, October 24, 2024

Whisky Tango Foxtrot Paperback

Lynne Black là một trong những chiến binh đã bổ sung thêm một mảnh ghép nữa vào
bức tranh ghép được gọi là MACV-SOG và các dự án bí mật chống lại những liên hệ
thầm lặng, đẫm máu xuyên qua hàng rào trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai.
Những chi tiết của ông về cuộc trình bày của ông tại Sở chỉ huy Sài Gòn do Trưởng
SOG, Đại tá Steve Cavanaugh, là những hồi ức đầu tiên, sâu sắc được ghi lại về một
trong những cuộc họp căng thẳng, đôi khi gây hấn, giữa những người hầu bàn và những
người mà họ cử đến, quá thường xuyên. , đến cái chết của họ. Bài tường thuật
của anh ấy về các sự kiện mà chương trình Kênh Lịch sử có nhãn “Jungle Ambush”,
một phần của loạt bài có tựa đề “Những anh hùng dưới lửa”, sẽ ngay lập tức
khiến người đọc hiểu được ý nghĩa của việc “trúng” Xổ số tại FOB 1. bao gồm
giao lộ của Đường 92 và 922, được biết đến nhiều nhất với cái tên mà cho đến
ngày nay vẫn gợi lên hình ảnh về cái chết và sự hủy diệt đối với bất kỳ trinh
sát nào từng chạy đến đó: Oscar Eight; là “giải thưởng”. Khía cạnh đó của cuốn
sách đủ để khiến người đọc dán mắt vào các trang khi đội trinh sát phải đối mặt
với những gì cuối cùng sẽ được tiết lộ là rất rất dài. Cuốn sách không chỉ đơn giản nói về việc chạy và bắn súng mà còn chứa đựng một
số hiểu biết sâu sắc về tư duy, động cơ của những chàng trai trẻ này bị đẩy vào
những tình huống mà ít độc giả có thể hiểu được. Việc Black nói rõ động lực ban
đầu của mình để trở lại Việt Nam trong chuyến du lịch thứ hai không có nghĩa là
nó thực sự bộc lộ điều mà cuối cùng sẽ được một số độc giả công nhận là “trò chơi”
tuyệt vời – nhu cầu tiềm thức để cảm nhận được sự vội vã của những nhiệm vụ này.
Trong cái mà chỉ có thể gọi là khung cảnh quán bar theo chủ nghĩa hiện sinh, “con
xúc xắc nói dối” do các cựu chiến binh làm nhiệm vụ xuyên biên giới chơi là sự phản
ánh “trò chơi” được chơi thực sự bởi các đội trên thực địa ở Lào, Campuchia, Bắc
Việt Nam và ở DMZ. Đọc kỹ chương đó sẽ tiết lộ nhiều điều về quy tắc sinh tồn
bất thành văn được truyền từ người trinh sát kỳ cựu sang những người mới và
chắc chắn sẽ dẫn đến sự so sánh không thể tránh khỏi với All Quiet on the
Western Front của Remarque. Black cũng khiến người đọc hứng thú với câu chuyện của mình bằng cách sử dụng rộng
rãi một số câu chuyện cực kỳ hài hước về mối quan hệ giữa những người trong đại đội
trinh sát, “những người nhỏ bé” của họ và với những cuộc phiêu lưu của anh ta ở hậu
phương. Mặc dù trong một số trường hợp (xem Chương nói về “Sean Flynn”), anh ấy
khiến độc giả muốn có thêm câu trả lời (bất kể chuyện gì đã xảy ra với Bucky?)
về một số chuyến đi phụ thú vị mà anh ấy dẫn dắt chúng ta, nhưng công bằng mà
nói thì bất kể điểm đến là gì , nó sẽ rất đáng nhớ. Bất chấp những lời chỉ
trích rất nhỏ này (“Tôi phải biết” - trích dẫn từ Dirty Harry), Black Op yêu
thích không thể nghi ngờ của tôi liên quan đến việc anh ta thử nghiệm một
phương pháp không chính thống để bắt thành công tù binh quân đội Bắc Việt. Nếu
tình tiết nhỏ đó không khiến bạn mỉm cười, bạn nên kiểm tra mạch của mình. ***************************************************************************** Lynne Black is one of those warriors who have added one more
piece to the puzzle which was known as MACV-SOG and the secret projects that
fought the silent, bloody contacts across the fence in the Second Indochina
War. His details of a Saigon Headquarters debriefing by Chief SOG, Colonel
Steve Cavanaugh, are the first, in-depth recorded recollections of one of those
taut, sometimes combative, sessions between the desk jockeys and the men whom
they sent, all-too-often, to their deaths. His narration of the events which a
History Channel program labeled “Jungle Ambush,” which is part of series titled
“Heroes Under Fire”, will immediately immerse the reader in what it meant to
“win” The Lottery at FOB 1. The Target Area encompassing the crossroads of
Routes 92 and 922, best known by the one name that to this day will conjure
images of death and destruction to any recon man who ever ran there: Oscar
Eight; was the “prize.” That aspect of the book is sufficient to make the
reader become glued to the pages, as the recon team faces what will eventually
be revealed to be very, very long odds. The book is not simply about running
and gunning, but also contains some intimate insight into the mind-set, the
motivations, of these young men thrust into situations which few readers will
ever come to understand. The fact that Black clearly states his initial
motivation to return to Vietnam for a second tour does not mean that it truly
reveals what will eventually be recognized by some readers as the great “game”
– the subconscious need to feel the rush of these missions. In what can only be
called an existentialist bar scene, the “liar’s dice” played by the veterans of
cross-border missions is a reflection of the “game” played for real by the
teams on the ground in Laos, Cambodia, North Vietnam and in the DMZ. A careful
reading of that chapter reveals much about the unwritten code of survival that
was passed from veteran recon man to the new guys and will certainly draw the
inevitable comparison to Remarque’s All Quiet on the Western Front. Black also
keeps the reader interested in his narrative by the generous use of some
greatly humorous stories of the relationships between the men of recon company,
their “little people” and with his adventures in the rear. Although in some instances
(see the Chapter dealing with “Sean Flynn”) he leaves his readers wanting more
answers (whatever happened to Bucky?) to some interesting side trips on which
he leads us, it is fair to say that regardless of the destination, it will be
memorable. Despite this very small criticism (“I gots to know” - to quote from
Dirty Harry) my unquestionably favorite Black Op involves his experimentation
with an unorthodox method to successfully capture a North Vietnamese Army POW.
If that little episode does not put a smile on your face, you should check your
pulse.

Thursday, September 12, 2024

Lt. (SEAL) Michael Murphy: For actions during Operation Red Wings on Jun. 28, 2005

 

Summary of Action

Lt. (SEAL) Michael Murphy: For actions during Operation Red Wings on Jun. 28, 2005

On June 28, 2005, deep behind enemy lines east of Asadabad in the Hindu Kush of Afghanistan, a very committed four-man Navy SEAL team was conducting a reconnaissance mission at the unforgiving altitude of approximately 10,000 feet. The SEALs, Lt. Michael Murphy, Gunner’s Mate 2nd Class (SEAL) Danny Dietz, Sonar Technician 2nd Class (SEAL) Matthew Axelson and Hospital Corpsman 2nd Class (SEAL) Marcus Luttrell had a vital task. The four SEALs were scouting Ahmad Shah – a terrorist in his mid-30s who grew up in the adjacent mountains just to the south.

Under the assumed name Muhammad Ismail, Shah led a guerrilla group known to locals as the "Mountain Tigers" that had aligned with the Taliban and other militant groups close to the Pakistani border. The SEAL mission was compromised when the team was spotted by local nationals, who presumably reported its presence and location to the Taliban.

A fierce firefight erupted between the four SEALs and a much larger enemy force of more than 50 anti-coalition militia. The enemy had the SEALs outnumbered. They also had terrain advantage. They launched a well-organized, three-sided attack on the SEALs. The firefight continued relentlessly as the overwhelming militia forced the team deeper into a ravine.

Trying to reach safety, the four men, now each wounded, began bounding down the mountain's steep sides, making leaps of 20 to 30 feet. Approximately 45 minutes into the fight, pinned down by overwhelming forces, Dietz, the communications petty officer, sought open air to place a distress call back to the base. But before he could, he was shot in the hand, the blast shattering his thumb.

Despite the intensity of the firefight and suffering grave gunshot wounds himself, Murphy is credited with risking his own life to save the lives of his teammates. Murphy, intent on making contact with headquarters, but realizing this would be impossible in the extreme terrain where they were fighting, unhesitatingly and with complete disregard for his own life moved into the open, where he could gain a better position to transmit a call to get help for his men.

Moving away from the protective mountain rocks, he knowingly exposed himself to increased enemy gunfire. This deliberate and heroic act deprived him of cover and made him a target for the enemy. While continuing to be fired upon, Murphy made contact with the SOF Quick Reaction Force at Bagram Air Base and requested assistance. He calmly provided his unit’s location and the size of the enemy force while requesting immediate support for his team. At one point he was shot in the back causing him to drop the transmitter. Murphy picked it back up, completed the call and continued firing at the enemy who was closing in. Severely wounded, Lt. Murphy returned to his cover position with his men and continued the battle.

An MH-47 Chinook helicopter, with eight additional SEALs and eight Army Night Stalkers aboard, was sent is as part of an extraction mission to pull out the four embattled SEALs. The MH-47 was escorted by heavily-armored, Army attack helicopters. Entering a hot combat zone, attack helicopters are used initially to neutralize the enemy and make it safer for the lightly-armored, personnel-transport helicopter to insert.

The heavy weight of the attack helicopters slowed the formation’s advance prompting the MH-47 to outrun their armored escort. They knew the tremendous risk going into an active enemy area in daylight, without their attack support, and without the cover of night. Risk would, of course, be minimized if they put the helicopter down in a safe zone. But knowing that their warrior brothers were shot, surrounded and severely wounded, the rescue team opted to directly enter the oncoming battle in hopes of landing on brutally hazardous terrain.

As the Chinook raced to the battle, a rocket-propelled grenade struck the helicopter, killing all 16 men aboard.

On the ground and nearly out of ammunition, the four SEALs, Murphy, Luttrell, Dietz and Axelson, continued the fight. By the end of the two-hour gunfight that careened through the hills and over cliffs, Murphy, Axelson and Dietz had been killed. An estimated 35 Taliban were also dead.

The fourth SEAL, Luttrell, was blasted over a ridge by a rocket propelled grenade and was knocked unconscious. Regaining consciousness some time later, Luttrell managed to escape – badly injured – and slowly crawl away down the side of a cliff. Dehydrated, with a bullet wound to one leg, shrapnel embedded in both legs, three vertebrae cracked; the situation for Luttrell was grim. Rescue helicopters were sent in, but he was too weak and injured to make contact. Traveling seven miles on foot he evaded the enemy for nearly a day. Gratefully, local nationals came to his aid, carrying him to a nearby village where they kept him for three days. The Taliban came to the village several times demanding that Luttrell be turned over to them. The villagers refused. One of the villagers made his way to a Marine outpost with a note from Luttrell, and U.S. forces launched a massive operation that rescued him from enemy territory on July 2.

By his undaunted courage, intrepid fighting spirit and inspirational devotion to his men in the face of certain death, Lt. Murphy was able to relay the position of his unit, an act that ultimately led to the rescue of Luttrell and the recovery of the remains of the three who were killed in the battle.

This was the worst single-day U.S. Forces death toll since Operation Enduring Freedom began nearly six years ago. It was the single largest loss of life for Naval Special Warfare since World War II.

The Naval Special Warfare (NSW) community will forever remember June 28, 2005 and the heroic efforts and sacrifices of our special operators. We hold with reverence the ultimate sacrifice that they made while engaged in that fierce fire fight on the front lines of the global war on terrorism (GWOT).

Trung úy (SEAL) Michael Murphy: Tham gia các hoạt động trong Chiến dịch Red Wings vào ngày 28 tháng 6 năm 2005

Vào ngày 28 tháng 6 năm 2005, sâu trong phòng tuyến của kẻ thù ở phía đông Asadabad ở Hindu Kush của Afghanistan, một đội SEAL của Hải quân gồm bốn người rất quyết tâm đang thực hiện một nhiệm vụ thám sát ở độ rất cao khoảng 10.000 feet. Các thành viên SEAL nhái, Trung úy Michael Murphy, Gunner's Mate Cấp 2 (SEAL) Danny Dietz, Kỹ thuật viên Sonar Cấp 2 (SEAL) Matthew Axelson và Y tá Cấp 2 (SEAL) Marcus Luttrell đã có một nhiệm vụ quan trọng. Bốn lính SEAL đang do thám Ahmad Shah - một kẻ khủng bố ở độ tuổi ngoài 30 lớn lên ở vùng núi liền kề ngay phía nam.

Dưới cái tên giả là Muhammad Ismail, Shah lãnh đạo một nhóm du kích được người dân địa phương gọi là "Những con hổ núi" đã liên kết với Taliban và các nhóm chiến binh khác gần biên giới Pakistan. Nhiệm vụ của SEAL đã bị thiệt hại khi đội bị người dân địa phương phát hiện, những người này có lẽ đã báo cáo sự hiện diện và vị trí của đội cho Taliban.

Một cuộc đọ súng ác liệt đã nổ ra giữa bốn lính SEAL và lực lượng địch đông hơn nhiều gồm hơn 50 dân quân chống liên minh. Kẻ thù có số lượng SEAL đông hơn. Họ cũng có lợi thế về địa hình. Họ đã phát động một cuộc tấn công ba mặt được tổ chức nhằm vào lực lượng SEAL. Cuộc đọ súng tiếp tục không ngừng nghỉ khi lực lượng dân quân áp đảo buộc cả đội phải tiến sâu hơn vào một khe núi.

Cố gắng đến nơi an toàn, bốn người đàn ông, hiện tất cả đều bị thương, bắt đầu lao xuống sườn dốc của ngọn núi, nhảy từ 20 đến 30 feet. Khoảng 45 phút sau trận chiến, bị áp đảo bởi lực lượng địa phương, Dietz, sĩ quan liên lạc, đã tìm kiếm ngoài trời để thực hiện cuộc gọi khẩn cấp về căn cứ. Nhưng trước khi kịp làm vậy, anh đã bị bắn vào tay, vụ nổ làm gãy ngón tay cái của anh.

Bất chấp cường độ của cuộc đọ súng và bản thân phải chịu những vết thương do đạn bắn, Murphy vẫn liều mạng để cứu sống đồng đội của mình. Murphy, có ý định liên lạc với trụ sở chính, nhưng nhận ra rằng điều này là không thể ở địa hình khắc nghiệt nơi họ đang chiến đấu, không ngần ngại và hoàn toàn coi thường mạng sống của mình đã chuyển đến nơi thoáng hơn nơi anh ta có thể có được vị trí tốt hơn để liên lạc về đơn vị cho tiếp viện.

Di chuyển khỏi những tảng đá lớn trên núi, anh cố tình tiếp cận với tiếng súng ngày càng gia tăng của kẻ thù. Hành động có chủ ý và anh hùng này đã làm lộ chỗ ẩn náu của anh ta và khiến anh ta trở thành mục tiêu của kẻ thù. Trong khi tiếp tục bị bắn, Murphy đã liên lạc với Lực lượng phản ứng nhanh SOF tại Căn cứ không quân Bagram và yêu cầu hỗ trợ. Anh bình tĩnh cung cấp vị trí đơn vị của mình và quy mô lực lượng địch đồng thời yêu cầu hỗ trợ ngay lập tức cho đội của mình. Có lúc anh ta bị bắn vào lưng khiến anh ta làm rơi máy truyền tin. Murphy nhặt lại, hoàn thành cuộc gọi và tiếp tục bắn vào kẻ địch đang theo sát. Bị thương nặng, Trung úy Murphy quay trở lại vị trí yểm trợ cùng người của mình và tiếp tục trận chiến.

Một máy bay trực thăng MH-47 Chinook, cùng với 8 lính SEAL bổ sung và 8 lính SEAL trên tàu, đã được cử đi như một phần của nhiệm vụ cấp cứu 4 lính SEAL đang bị vây hãm. MH-47 được hộ tống bởi các trực thăng tấn công bọc thép hạng nặng của Quân đội. Khi tiến vào vùng chiến sự rất nóng, trực thăng tấn công ban đầu được sử dụng để vô hiệu hóa kẻ thù và giúp trực thăng vận tải nhân sự, bọc thép nhẹ tiến vào an toàn hơn.

 
Trọng lượng nặng nề của trực thăng tấn công đã làm chậm bước tiến của đội hình, khiến MH-47 phải vượt qua đội hộ tống bọc thép của họ. Họ biết nguy cơ to lớn khi tiến vào khu vực địch đang hoạt động vào ban ngày mà không có sự hỗ trợ tấn công của chúng và không có sự che chắn của ban đêm. Tất nhiên, rủi ro sẽ được giảm thiểu nếu họ đưa trực thăng xuống vùng an toàn. Nhưng biết rằng những người anh em chiến binh của mình đã bị bắn, bị bao vây và bị thương nặng, đội cứu hộ đã quyết định trực tiếp tiến vào trận chiến sắp tới với hy vọng đổ bộ xuống địa hình hiểm trở đến tàn khốc.

Khi chiếc Chinook lao vào trận chiến, một quả đạn phóng bằng tên lửa đã bắn trúng chiếc trực thăng, khiến tất cả 16 người trên máy bay thiệt mạng.

 Trên mặt đất và gần hết đạn, bốn lính SEAL, Murphy, Luttrell, Dietz và Axelson, tiếp tục chiến đấu. Vào cuối cuộc đấu súng kéo dài hai giờ đồng hồ xuyên qua những ngọn đồi và vách đá, Murphy, Axelson và Dietz đã bị giết. Ước tính có khoảng 35 người Taliban cũng đã chết.

SEAL thứ tư, Luttrell, bị một quả đạn phóng tên lửa bắn qua sườn núi và bất tỉnh. Tỉnh lại một thời gian sau, Luttrell trốn thoát được - bị thương nặng - và từ từ bò xuống sườn một vách đá. Mất nước, một chân bị đạn bắn, mảnh đạn găm vào cả hai chân, nứt ba đốt sống; tình hình của Luttrell thật nghiệt ngã. Trực thăng cứu hộ đã được điều đến nhưng anh ta quá yếu và bị thương nên không thể liên lạc được. Đi bộ bảy dặm ông đã trốn tránh kẻ thù gần một ngày. Thật may mắn, người dân địa phương đã đến giúp đỡ anh, đưa anh đến một ngôi làng gần đó và giữ anh trong ba ngày. Taliban đã đến làng nhiều lần yêu cầu giao Luttrell cho họ. Dân làng từ chối. Một trong những dân làng đã tìm đường đến tiền đồn của Thủy quân lục chiến với lời nhắn của Luttrell, và lực lượng Hoa Kỳ đã phát động một chiến dịch lớn giải cứu anh ta khỏi lãnh thổ của kẻ thù vào ngày 2 tháng 7.

Bằng lòng dũng cảm kiên cường, tinh thần chiến đấu dũng cảm và sự cống hiến đầy cảm hứng cho người của mình khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra, Trung úy Murphy đã có thể tiếp tục vị trí của đơn vị mình, một hành động cuối cùng dẫn đến việc giải cứu Luttrell và thu hồi những gì còn lại trong số ba người đã thiệt mạng trong trận chiến.

Đây là số người thiệt mạng trong một ngày tồi tệ nhất của Lực lượng Hoa Kỳ kể từ khi Chiến dịch Tự do Bền vững bắt đầu gần sáu năm trước. Đây là tổn thất nhân mạng lớn nhất đối với Chiến tranh Đặc biệt của Hải quân kể từ Thế chiến thứ hai.

Cộng đồng Chiến tranh Đặc biệt Hải quân (NSW) sẽ mãi mãi ghi nhớ ngày 28 tháng 6 năm 2005 cũng như những nỗ lực và hy sinh anh dũng của những người điều hành đặc biệt của chúng ta. Chúng tôi trân trọng sự hy sinh cao cả nhất mà họ đã thực hiện khi tham gia vào cuộc đọ súng khốc liệt trên tuyến đầu của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu (GWOT).

-NSW-

OPERATION REDWING KIAs -

On June 28, 2005, three of four SEALS on the ground (Murphy, Dietz, Axelson) were killed during combat operations in support of Operation Red Wing. ON the same day, a QRF of eight Navy SEALs and 8 Army Night Stalkers were also killed when the MH-47 helicopter that they were aboard was shot down by enemy fire in the vicinity of Asadabad, Afghanistan in Kumar Province.

Navy SEALs
SEAL Delivery Vehicle Team 1, Pearl Harbor, Hawaii.
  1. Lt. (SEAL) Michael P. Murphy, 29, of Patchogue, N.Y.
  2. Sonar Technician (Surface) 2nd Class (SEAL) Matthew G. Axelson, 29, of Cupertino, Calif.
  3. Machinist Mate 2nd Class (SEAL) Eric S. Patton, 22, of Boulder City, Nev.
  4. Senior Chief Information Systems Technician (SEAL) Daniel R. Healy, 36, of Exeter, N.H.
  5. Quartermaster 2nd Class (SEAL) James Suh, 28, of Deerfield Beach, Fla.
SEAL Delivery Vehicle Team 2, Virginia Beach, Va.
  1. Gunner’s Mate 2nd Class (SEAL) Danny P. Dietz, 25, of Littleton, Colo.
SEAL Team 10, Virginia Beach, Va.
  1. Chief Fire Controlman (SEAL) Jacques J. Fontan, 36, of New Orleans, La.
  2. Lt. Cmdr. (SEAL) Erik S. Kristensen, 33, of San Diego, Calif.
  3. Electronics Technician 1st Class (SEAL) Jeffery A. Lucas, 33, of Corbett, Ore.
  4. Lt. (SEAL) Michael M. McGreevy Jr., 30, of Portville, N.Y.
  5. Hospital Corpsman 1st Class (SEAL) Jeffrey S. Taylor, 30, of Midway, W.Va.
Army Night Stalkers
  1. 3rd Battalion, 160th Special Operations Aviation Regiment (Airborne), Hunter Army Air Field, Ga.
  2. Staff Sgt. Shamus O. Goare, 29, of Danville, Ohio.
  3. Chief Warrant Officer Corey J. Goodnature, 35, of Clarks Grove, Minn.
  4. Sgt. Kip A. Jacoby, 21, of Pompano Beach, Fla.
  5. Sgt. 1st Class Marcus V. Muralles, 33, of Shelbyville, Ind.
  6. Maj. Stephen C. Reich, 34, of Washington Depot, Conn.
  7. Sgt. 1st Class Michael L. Russell, 31, of Stafford, Va.
  8. Chief Warrant Officer Chris J. Scherkenbach, 40, of Jacksonville, Fla.
  9. HQ Company, 160th Special Operations Aviation Regiment (Airborne), Fort Campbell, Ky.
  10. Master Sgt. James W. Ponder III, 36, of Franklin, Tenn.

U.S. Navy SEALs are the maritime component of U.S. Special Operations Command and the Navy’s special operations force. The SEALs take their name from the elements in which they operate – sea, air and land. Experts in special reconnaissance and direct action missions – SEALs continue to successfully execute DoD’s most important warfighting missions in the GWOT.

Official Citation

LIEUTENANT MICHAEL P. MURPHY
UNITED STATES NAVY

For service set forth in the following

CITATION:

FOR CONSPICUOUS GALLANTRY AND INTREPIDITY AT THE RISK OF HIS LIFE ABOVE AND BEYOND THE CALL OF DUTY AS THE LEADER OF A SPECIAL RECONNAISSANCE ELEMENT WITH NAVAL SPECIAL WARFARE TASK UNIT AFGHANISTAN ON 27 AND 28 JUNE 2005. WHILE LEADING A MISSION TO LOCATE A HIGH-LEVEL ANTI-COALITION MILITIA LEADER, LIEUTENANT MURPHY DEMONSTRATED EXTRAORDINARY HEROISM IN THE FACE OF GRAVE DANGER IN THE VICINITY OF ASADABAD, KONAR PROVINCE, AFGHANISTAN. ON 28 JUNE 2005, OPERATING IN AN EXTREMELY RUGGED ENEMY-CONTROLLED AREA, LIEUTENANT MURPHY’S TEAM WAS DISCOVERED BY ANTI-COALITION MILITIA SYMPATHIZERS, WHO REVEALED THEIR POSITION TO TALIBAN FIGHTERS. AS A RESULT, BETWEEN 30 AND 40 ENEMY FIGHTERS BESIEGED HIS FOUR-MEMBER TEAM. DEMONSTRATING EXCEPTIONAL RESOLVE, LIEUTENANT MURPHY VALIANTLY LED HIS MEN IN ENGAGING THE LARGE ENEMY FORCE. THE ENSUING FIERCE FIREFIGHT RESULTED IN NUMEROUS ENEMY CASUALTIES, AS WELL AS THE WOUNDING OF ALL FOUR MEMBERS OF THE TEAM. IGNORING HIS OWN WOUNDS AND DEMONSTRATING EXCEPTIONAL COMPOSURE, LIEUTENANT MURPHY CONTINUED TO LEAD AND ENCOURAGE HIS MEN. WHEN THE PRIMARY COMMUNICATOR FELL MORTALLY WOUNDED, LIEUTENANT MURPHY REPEATEDLY ATTEMPTED TO CALL FOR ASSISTANCE FOR HIS BELEAGUERED TEAMMATES. REALIZING THE IMPOSSIBILITY OF COMMUNICATING IN THE EXTREME TERRAIN, AND IN THE FACE OF ALMOST CERTAIN DEATH, HE FOUGHT HIS WAY INTO OPEN TERRAIN TO GAIN A BETTER POSITION TO TRANSMIT A CALL. THIS DELIBERATE, HEROIC ACT DEPRIVED HIM OF COVER, EXPOSING HIM TO DIRECT ENEMY FIRE. FINALLY ACHIEVING CONTACT WITH HIS HEADQUARTERS, LIEUTENANT MURPHY MAINTAINED HIS EXPOSED POSITION WHILE HE PROVIDED HIS LOCATION AND REQUESTED IMMEDIATE SUPPORT FOR HIS TEAM. IN HIS FINAL ACT OF BRAVERY, HE CONTINUED TO ENGAGE THE ENEMY UNTIL HE WAS MORTALLY WOUNDED, GALLANTLY GIVING HIS LIFE FOR HIS COUNTRY AND FOR THE CAUSE OF FREEDOM. BY HIS SELFLESS LEADERSHIP, COURAGEOUS ACTIONS, AND EXTRAORDINARY DEVOTION TO DUTY, LIEUTENANT MURPHY REFLECTED GREAT CREDIT UPON HIMSELF AND UPHELD THE HIGHEST TRADITIONS OF THE UNITED STATES NAVAL SERVICE.

SIGNED GEORGE W. BUSH

Biography

Lieutenant (SEAL) Michael P. Murphy
May 7, 1976 - June 28, 2005

Lt. Michael P. Murphy, fondly referred to by friends and family as “Murph,” was born May 7, 1976 in Smithtown, N.Y. and grew up in the New York City commuter town of Patchogue, N.Y. on Long Island.

Murphy grew up active in sports and attended Patchogue's Saxton Middle School. In high school, Murphy took a summer lifeguard job at the Brookhaven town beach in Lake Ronkonkoma -- a job he returned to each summer through his college years. Murphy graduated from Patchogue-Medford High School in 1994.

Murphy attended Penn State University, where he was an exceptional all-around athlete and student, excelling at ice hockey and graduating with honors. He was an avid reader; his reading tastes ranged from the Greek historian Herodotus to Tolstoy's "War and Peace." Murphy's favorite book was Steven Pressfield’s “Gates of Fire,” about the Spartan stand at Thermopylae. In 1998, he graduated with a pair of Bachelor of Arts degrees from Penn State -- in political science and psychology.

Following graduation, he was accepted to several law schools, but instead he changed course. Slightly built at 5 feet 10 inches, Murphy decided to attend SEAL mentoring sessions at the U.S. Merchant Marine Academy at Kings Point with his sights on becoming a U.S. Navy SEAL. Murphy accepted an appointment to the Navy's Officer Candidate School at Pensacola, Fla., in September, 2000.

Murphy was commissioned as an ensign in the Navy on Dec. 13, 2000, and began Basic Underwater Demolition/SEAL (BUD/S) training in Coronado, Calif., in January 2001, graduating with Class 236. BUD/S is a six-month training course and the first step to becoming a Navy SEAL.

Upon graduation from BUD/S, he attended the Army Jump School, SEAL Qualification Training and SEAL Delivery Vehicle (SDV) school. Lt. Murphy earned his SEAL Trident and checked on board SDV Team (SDVT) 1 in Pearl Harbor, Hawaii in July of 2002. In October of 2002, he deployed with Foxtrot Platoon to Jordan as the liaison officer for Exercise Early Victor.

Following his tour with SDVT-1, Lt. Murphy was assigned to Special Operations Central Command in Florida and deployed to Qatar in support of Operation Iraqi Freedom. After returning from Qatar, Lt. Murphy was deployed to the Horn of Africa, Djibouti, to assist in the operational planning of future SDV missions.

In early 2005, Murphy was assigned to SEAL Delivery Vehicle Team 1 as assistant officer in charge of ALFA Platoon and deployed to Afghanistan in support of Operation Enduring Freedom.

On June 28, 2005, Lt. Murphy was the officer-in-charge of a four-man SEAL element in support of Operation Red Wing tasked with finding key anti-coalition militia commander near Asadabad, Afghanistan. Shortly after inserting into the objective area, the SEALs were spotted by three goat herders who were initially detained and then released. It is believed the goat herders immediately reported the SEALs’ presence to Taliban fighters.

A fierce gun battle ensued on the steep face of the mountain between the SEALs and a much larger enemy force. Despite the intensity of the firefight and suffering grave gunshot wounds himself, Murphy is credited with risking his own life to save the lives of his teammates. Murphy, intent on making contact with headquarters, but realizing this would be impossible in the extreme terrain where they were fighting, unhesitatingly and with complete disregard for his own life moved into the open, where he could gain a better position to transmit a call to get help for his men.

Moving away from the protective mountain rocks, he knowingly exposed himself to increased enemy gunfire. This deliberate and heroic act deprived him of cover and made him a target for the enemy. While continuing to be fired upon, Murphy made contact with the SOF Quick Reaction Force at Bagram Air Base and requested assistance. He calmly provided his unit’s location and the size of the enemy force while requesting immediate support for his team. At one point, he was shot in the back causing him to drop the transmitter. Murphy picked it back up, completed the call and continued firing at the enemy who was closing in. Severely wounded, Lt. Murphy returned to his cover position with his men and continued the battle.

As a result of Murphy’s call, an MH-47 Chinook helicopter, with eight additional SEALs and eight Army Night Stalkers aboard, was sent in as part of the QRF to extract the four embattled SEALs. As the Chinook drew nearer to the fight, a rocket-propelled grenade hit the helicopter, causing it to crash and killing all 16 men aboard.

On the ground and nearly out of ammunition, the four SEALs, continued to fight. By the end of a two-hour gunfight that careened through the hills and over cliffs, Murphy, Gunner’s Mate 2nd Class (SEAL) Danny Dietz and Sonar Technician 2nd Class (SEAL) Matthew Axelson had fallen. An estimated 35 Taliban were also dead. The fourth SEAL, Hospital Corpsman 2nd Class (SEAL) Marcus Luttrell, was blasted over a ridge by a rocket-propelled grenade and knocked unconscious. Though severely wounded, the fourth SEAL and sole survivor, Luttrell, was able to evade the enemy for nearly a day; after which local nationals came to his aide, carrying him to a nearby village where they kept him for three more days. Luttrell was rescued by U.S. Forces on July 2, 2005.

By his undaunted courage, intrepid fighting spirit and inspirational devotion to his men in the face of certain death, Lt. Murphy was able to relay the position of his unit, an act that ultimately led to the rescue of Luttrell and the recovery of the remains of the three who were killed in the battle.

Lt. Murphy was buried at Calverton National Cemetery less than 20 miles from his childhood home. Lt. Murphy’s other personal awards include the Purple Heart, Combat Action Ribbon, the Joint Service Commendation Medal, the Navy and Marine Corps Commendation Medal, Afghanistan Campaign Ribbon and National Defense Service Medal.

Lt. Murphy is survived by his mother Maureen Murphy; his father Dan Murphy; and his brother John Murphy. Dan and Maureen Murphy, who were divorced in 1999, remain close friends and continue to live in N.Y. Their son John serves in a law enforcement capacity in the state of NY.