Tuesday, December 31, 2013

MÁU VÀ NƯỚC MẮT CỦA QLVNCH TRÊN ÐƯỜNG TRƯỜNG SƠN


TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG DƯƠNG 1955-1975
MƯỜNG GIANG


            Một năm sau ngày miền Nam bị cưởng chiếm, phái đoàn Bắc Việt do Trường Chinh đại diện và Ðảng Bộ Việt Cộng miền Nam tức Mặt Trận Giải Phóng MN, dưới quyền Phạm Hùng, đã chính thức họp tại Sài Gòn, để khai tử cái Mặt Trận “ MA “, được Hà Nội dàn dựng và khai sinh từ ngày 20-12-1960, nhằm lường gạt dư luận thế giới và dân chúng trong nước, qua âm mưu thôn tính VNCH. Cũng từ đó (1976), cái gọi là con đường huyền thoại Hồ Chí Minh, tức đường mòn Trường Sơn với bí danh 559A, hành lang để Hà Nội chuyển tiếp liệu, quân dụng và người vào Nam, từ năm 1959 tới ngày 30-4-1975, cũng bị đảng nhận chìm trong quên lãng.

            Bắt đầu từ năm 1989 tới 1991, đã có nhiều biến cố chính trị quan trọng xảy ra tại Ðông Âu. Ðó là việc các nước chư hầu, lần lượt từ bỏ xã hội chủ nghĩa, kéo theo sự sụp đổ và tan rã của Liên Bang Sô Viết. Ðể cứu đảng khi đã mất cái dù che của Nga, Việt Cộng lại ngả về Tàu, đồng thời mở khẩu đổi mới, trải thảm đỏ, mời Hoa Kỳ, Nhật và Tây Phương vào làm ăn buôn bán. Nhờ vậy lớp son phấn che kín bản mặt thật của đảng, dần hồi bị xói mòn, bởi các tệ trạng tham nhũng, cướp bóc nơi cửa quyền và nhất là sự kiện đảng công khai bán nước cho ngoại bang, hèn nhục để cho dân mình bị Tàu Cộng bắn giết trên biển vào tháng 1-2005, đã làm cho cả nước không còn hãi sợ và tin Việt Cộng, kể cả một số không ít trí thức khoa bảng NamVN trước đây, từng tin đảng là chính nghĩa, làm cách mạng chỉ để giải phóng đất nước bị Mỹ-Ngụy kềm kẹp bóc lột.

            Ðể bảo vệ đảng cũng như quyền lợi của chóp bu đang hồi tiến nhanh tiến mạnh, Hà Nội lai lùi một bước, quay về với chiến lược cũ rích năm nào. Ðó là dùng lịch sử để lường gạt đồng bào và Việt kiều thêm lần nửa. Ðảng đem những huyền thoại trên trời dưới biển năm nao, ra hâm nóng lại tinh thần yêu nước là “ yêu nước xã hội chủ nghĩa “của cán bộ đảng viên, đang bị phân hoá lung lay niềm tin tới tận gốc, vì dành ăn, tranh quyền và ganh tị lẫn nhau bởi “ trâu cột ghét trâu ăn “.Ngoài ra, đảng cho trùng tu lại các di tích chiến tranh, như Ðịa đạo Vĩnh Mốc (Vĩnh Linh-Quảng Trị), Củ Chi (Hậu Nghĩa), cũng như tái tạo lại con đường mòn Hồ Chí Minh. Công tác trên vừa có tính cách xoa dịu tự ái của những đảng vỉên bộ đội già bị vắt chanh bỏ võ, sau khi tàn chinh chiến. Ðồng thời lần nữa lừa bịp cũng như móc túi bọn du khách ngoại quốc, trong đó có không ít Việt Kiều trí thức Miền Nam ngày xưa trốn quân dịch, nên có bao giờ biết cũng như nếm được mùi chiến tranh bom đạn, và đám da trắng giàu có đa sự. Bọn này rất muốn biết và nhìn tận mắt con đường mà Hoa Kỳ, nói là đã oanh tạc một số bom đạn, nhiều hơn số lượng đã xử dụng trong thời đệ nhi thế chiến nhưng vẫn không ngăn nổi người và quân dụng Bắc Việt vào Nam.

            Việc đẻ ra kế hoạch “ mười năm du lịch “ 1995-2005 “ của Võ văn Kiệt tại nghị định số 307 ngày 24-5-1995, cũng là một trong những sự sao y bản chánh của Trung Cộng, vì thấy Ðặng tiểu Bình đã thành công, khi xây dựng các khu du lịch và công nghiệp tại Thẩm Quyến, Hải Nam, Thượng Hải.. Từ đó Hà Nội đã bất chấp thực tế, vẫn hồng hơn chuyên, bỏ hằng tỷ bạc ngân sách quốc gia, để xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất và thành phố Vạn Tưởng, tại Quảng Tín-Quảng Ngãi, trước sự mai mỉa cười chê của thế giới. Khắp nước nơi nào cũng tổ chức các tour du lịch, để hốt bạc và tuyên truyền bộ mặt son phấn mới của VN xã nghĩa. Ngay chốn khỉ ho cò gáy như miền giới tuyến năm nào trong tỉnh Quảng Trị, cũng có một tour du lịch, từ Cửa Việt lên tới Khe Sanh, Tà Cơn, Cầu Treo DakRong, ngã ba QL9 và đường mòn HCM, gọi là The Demilitarized zone tour, thường viết tắt là D.M.Z. Mục đích để đảng quảng cáo các chiến lợi phẩm thời chiến tranh và cái gọi là nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mà theo thân nhân của người quá cố, trong hòm chỉ có cát-đất, xương thú vật mà thôi.

            Có đọc trường thiên ký sự “ Ðường đi không tới “ của nhà văn VC hồi chánh là Xuân Vũ, hay đã làm lính VNCH, mới cảm nhận được cái ý vị khổ nhục cùng tận của cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1955-1975), do Ðệ tam quốc tế cọng sản chủ xướng, qua vai trò tên lính tiền phương đánh mướn là Việt Cộng. Trong cuộc chiến vô nghĩa phi lý này, mặt trận tại Trường Sơn, đã là mồ chôn hằng vạn tử sĩ của cả hai phía. Những địa danh như Dốc pháo cụt, Ðồi không tên, Sông A-Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh, Dakto, A-Shau, Ia-Drang, Pleime, Ðức Cơ.. ra tận miền Bắc, càng lúc càng trở nên khốc liệt, khi nó chính thức trở thành con đường chiến lược để Bắc Việt xâm lăng VNCH. Suốt thời gian chiến tranh, Võ Nguyên Giáp qua tư cách Ðại Tướng tổng tư lệnh quân đội VC, đã từng tuyên bố với báo chí quốc tế, là hắn sẽ đốt rụi Trường Sơn, dù phải đem giết hết thanh niên nam nữ miền bắc. Cho nên không lạ khi thấy Xuân Vũ nói “ mạng người lá rụng “, để viết về thảm kịch Ðường Ði Không Tới, của một số cán binh bộ đội hồi kết năm nào.

            Tháng 11-1997, Võ nguyên Giáp khoe thành tích Bát Quái Ðồ, tức là đường Trường Sơn 559, do Ðinh Ðức Thiện và Ðồng Sĩ Nguyên lần lượt chỉ huy suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Ngày xưa thế giới đui mù vì bị bọn trí thức khoa bảng, cha-sư miền Nam tuyên truyền lật lọng, nên chẳng bao giờ thấy được hình ảnh bộ đội cọng sản “ sinh bắc tử nam “, khi ồ ạt vượt vĩ tuyến 17, vào đường mòn HCM, để tấn công cưỡng chiếm Miền Nam thanh bình no ấm, như họ đã thấy tại bán đảo Triều Tiên, vào tháng 6-1950, qua cuộc chiến Cao Ly. Nhưng biết sớm hay muộn cũng giống nhau, vì ngày nay trên khắp nẻo đường Trường Sơn năm củ, từ Bắc Việt vào tới Phước-Bình Long, hằng ngày đã có hằng vạn nguời Việt , đói rách bị chĩa súng có gắn mã tấu sau lưng, để bắt họ làm nghĩa vụ lao động. Cũng qua cái hình ảnh đau thương này, đã làm cho mọi người trong cuộc của cả hai phía, chợt nhớ tới những cô gái Trường Sơn năm nào, luôn mỏi ngóng các chàng lính trận có lần đã đi vào con tim của họ. Ðể rồi từ đó tới nay, tuổi xuân tháp cánh lưng trời, mà bóng ai vẫn biền biệt, như cái huyền thoại Trường Sơn, thật sự đã chết trong tâm tư đồng bào sơn cước, khi họ bị VC cướp đất, lừa bịp.. sau khi đất nước đã có hòa bình.

“ mai về quê mẹ, lên biên giới
thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung
rừng núi vẫn xanh màu khát vọng
chỉ ta hờn tủi, kiếp tha hương ..”

1- Bối cảnh lịch sử có liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) :

            Ngày 7-5-1954 Ðiện Biên Phủ thất thủ, nước VN tạm thời bị chia cắt thành 2 miền riêng biệt, với 2 thể chê khác nhau, do cái gọi là tứ cường Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Cộng tự ý quyết định số phận của đất nước và dân tộc VN, tại bàn hội nghị Genève ( Thụy Sĩ ). Hoa Kỳ lúc đó là đồng chủ tịch nhưng vì một lý do gì đó, nên không ký vào biên bản. Từ đó, Bắc Việt do Hồ Chí Minh lãnh đạo, công khai theo chế độ cọng sản và là chư hầu của Nga-Tàu. Miền Nam chọn chính thể Cọng Hòa. Hai miền VN lấy vĩ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, làm ranh giới tạm chia. Theo tinh thần hiệp ước đình chiến, quân viễn chinh Pháp phải rút hết về nước, còn VC trong mặt trận Việt Minh tại miền Nam, cũng phải tập kết ra bắc.

            Từ khi chính thức làm trùm nửa nước, Hồ Chí Minh và đảng VC, theo chân Mao Trạch Ðông, phóng tay phát động phong trào cải cách ruộng đất năm 1956, làm cho hằng vạn người dân vô tội tại miền bắc, bị đấu tố chết thảm thương, trong số này hầu hết đều có công với nước hay với đảng trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Nội vụ được giấu kín hay được bọn trí thức khoa bảng da trắng thân cộng như G.Kolko, tác giả quyển “ VN Anatomy of wars 1940-1975 “ tuyên truyền hoàn toàn trái ngược với sự thật. Trong khi đó, tình hình chính trị của miền Nam từ A - Z, bị bọn trí thức thân cộng trong và ngoài nước, moi móc, bịa đặt đủ điều vơí mục đích làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền Nam, trong lúc đang chiến đấu chống lại sự xâm lăng của cọng sản đệ tam quốc tế .

            Tại VNCH, những năm đầu tiên, TT Ngô Ðình Diệm đã gặp rất nhiều khó khăn , trong việc đương đầu với với các Giáo phái và lực lượng Bình Xuyên. Lợi dụng giậu đổ bìm leo, VC nằm vùng tại miền Nam đã phát động các cuộc nổi loạn võ trang, gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Bắc Ruộng (Bình Thuận) và Mõ Cầy (Bến Tre), song song với các vụ khủng bố, ám sát đồng bào và viên chức xã ấp khắp nơi nhưng cuối cùng mọi hành động phá rối của VC đều thất bại. Theo hầu hết các nguồn sử liệu còn lưu trữ, cho biết tình hình chính trị tại VNCH, vào những năm 1956,1957, 1958 rất khả quan từ Sài Gòn cũng như các tỉnh, nơi thị tứ cho tới chốn quê làng, đâu cũng vui sống cảnh thanh bình no cơm áo ấm. Nhờ vậy TT Ngô Ðình Diệm cũng như Chính Phủ Miền Nam, lúc đó đã gây được uy tín rất lớn trên thế giới.

            Trước tình hình nguy ngập đó, Hồ Chí Minh đã phải gọi Lê Duẩn, lúc đó đang làm xứ bộ trưởng, chỉ huy cán bộ nằm vùng tại miền Nam, trở ra Bắc, để duyệt xét lại kế hoạch cưỡng chiếm VNCH bằng vũ lực, thay vì kỳ vọng vào cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Geneve 1954 đã qui định, mà VNCH không chịu thi hành, vì không hề ký vào biên bản hiệp ước trên. Trong phiên họp lần thứ 15 của Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng, khai diễn ở Hà Nội vào tháng 1-1959, quyết định thành lập Lực Lượng Vũ Trang tại Miền Nam. Kế tiếp ngày 5-10-1960, đảng lại họp Ðại Hội 3 cũng tại Hà Nội, để thành lập Ðảng Bộ cọng sản Miền Nam, qua danh xưng “ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “,làm cánh tay nối dài, vừa là bình phong, vừa tạo công cụ xâm lăng cho Bắc Việt. Ðúng như Lê Duẩn đã tuyên bố “ Ðó là chiến lược bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cưỡng chiếm miền Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lê và giai cấp công nông “.Tóm lại theo chủ trương của Hà Nội, Ðảng Bộ CS miền Nam, tức MTGPMN , phải hành động theo ba mục tiêu chiến lược : 1- Ly gián đồng bào và chính quyền VNCH 2- Ðánh lừa dư luận thế giới về cuộc xâm lăng của miền Bắc, trở thành cuộc nội chiến tại miền Nam . 3- Tuyệt đối phải tuân theo các chỉ thị của đảng, do miền Bắc lãnh đạo, Mặt trận miền Nam chỉ thừa hành, theo đúng chính sách đề cương trong khối xã hội chủ nghĩa quốc tế.

            Nên tới nay, dù được gọi bằng danh từ gì chăng nửa như Cục R, Ðảng bộ CS Miền Nam, Mặt Trận GPMN.. thì cũng chỉ là “ Mặt trận mốc xì, đảng ta đó “ qua lời tuyên bố trơ trẽn của Lê Ðức Thọ tại Ba Lê, sau khi vừa ký xong với Kissinger trên tờ hiệp định ngưng bắn năm 1973. MTGPMN được hợp thức hóa vào cuối tháng 12-1960 tại một căn cứ của VC, nằm cách biên giới Việt-Miên chừng 7km. Ðây là khu rừng già nằm kế cầu Cần Ðăng, trên con đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí, Xóm Mới, Sóc Ông Trang.. thuộc tỉnh Tây Ninh. Buổi lễ được đặt dưới quyền chủ tọa của Sáu Vi,bí danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng, nguyên phụ trách vấn đề nông dân và thanh niên miền bắc. Mặt trận có mười nhân vật khoa bảng miền Nam, đang đối lập chính trị với VNCH, gồm Nguyễn Hữu Thọ (đang bị giam tại Cũng Sơn-Phú Yên, vì tội hiếp dâm, dược VC giải thoát ), Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Phùng văn Cung, Ưng văn Kỳ.. Bọn này hầu hết thuộc thành phần địa chủ, phú gia thời Pháp thuộc, được VC nằm vùng là Huỳnh tấn Phát móc nối dụ dỗ. Tất cả được Hà Nội đem ra làm bung xung che mắt thiên hạ nhưng đầu não lãnh đạo, vẫn do Lê Duẫn, Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Trần văn Trà, Nguyễn Chí Thanh.. quyết định theo đúng chính sách của Hà Nội đã nghị quyết. Cũng từ đó, Nguyễn Hữu Thọ được phong hàm chủ tịch Mặt Trận, mở đầu cuộc chiến xâm lăng Miền Nam bằng vũ lực. Tại Miền bắc, Hồ Chí Minh ban lệnh hồi kết, hàng chục ngàn cán binh bộ đội trở về Nam, để thành lập “ Quân Giải Phóng “ do Trần Văn Trà làm tư lệnh. Một số lớn Hoa kiều sống tại Hải Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thanh Hóa.. cũng được vào Nam, cùng một số Hoa Kiều thân cộng, đang do Tư Méo, tức Trương Gia Triều, bí danh Trần Bạch Ðằng chỉ huy, để trà trộn, tuyên truyền gây rối trong cộng đồng người Hoa miền Nam. Ðồng thời con đường mòn giao liên cũ, từ miền bắc vào Liên Khu 5, do đại tá Nguyễn Thông, bí danh của trung tá Nhật Ishitako, mở năm 1947, cũng được đảng giao cho Hai xe ngựa tức đại tá Võ Bẳm nối lại, để trùng tu vào năm 1959. Ðây là con đường chiến lược Liên Việt, tức là đường mòn Trường Sơn hay Hồ Chí Minh, mang bí danh 559A. Sau khi Pham văn Ðồng nhân danh thủ tướng nước VNDCCH, theo chỉ thị của đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, ký xác nhận quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1958, thì Hà Nội được Tàu Cộng, giúp phương tiện mở thêm một đường dây trên biển Ðông với bí danh 559B hay 759, chuyển quân dụng và bộ đội từ bắc vào nam bằng đường thủy. Theo Ðồng văn Cống, từng phụ trách đường dây 559B từ 1959-1968, thì việc tổ chức hai con đường bí mật trên, chỉ có Hồ Chí Minh, Phạm văn Ðồng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần văn Trà, biết mà thôi. Còn những người khác chỉ thừa hành theo lệnh, kể cả Nguyễn Chí Thanh, Trần Ðộ, Trường Chinh..

2- Ðường Mòn Hồ Chí Minh :

            Sự thật, những chuyện đã xảy ra hằng ngày trên đường mòn HCM, tức là hành lang xâm nhập người và quân dụng, từ Bắc vào Nam của cong sản Hà Nội, đối với Hoa Kỳ và VNCH, không phải là huyền thoại hay bí mật ghê gớm, vì những gì xảy ra ở đó, qua phi cơ thám thính và các toán Biệt Kích hoạt động, họ gần như biết đủ. Có chăng là sự lạ lùng, vì ai cũng biết VC là kẻ chủ mưu gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, chứ không phải là nội chiến. Ngoài ra cuộc xâm lược qui mô đều phát xuất từ đường mòn Trường Sơn, tiếp diễn liên tục đêm ngày không bao giờ gián đọan. Thế nhưng quân lực Hoa Kỳ, Ðồng Minh và ngay cả VNCH, cũng bị chính phủ Mỹ tại Hoa Thịnh Ðốn, ra lệnh giới hạn trong lúc chiến đấu với VC, theo qui định tại nhiều điểm, được gọi là “ Luật Chiến Ðấu ố Rules of Engagement “.Ngoài ra cũng không được tấn cộng hậu phương miền bắc, để tránh sự đụng độ quân sự với Trung Cộng, như đã xảy ra năm 1950, tại chiến cuộc Cao Ly.

            Năm 1985, sau mười năm chấm dứt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, Bộ Quốc Phòng Mỹ mới cho phép giảm độ mật, khi cho Congressssional Record phổ biến hạn chế, cái gọi là “ Luật Chiến Ðấu tại VN “ qua 26 trang tóm tắt, trong đó có liên quan tới đường mòn Hồ Chí Minh. Cũng nhờ vậy, ta mới biết được nhiều điều thật vô lý, chỉ có siêu cường Mỹ mới có. Chẳng hạn nhu trong luật chiến đấu, có điều 3 cấm không quân Mỹ giội bom các quân xa VC, nếu chúng ở cách đường mòn HCM 200m. Ðiều này giúp cho quân xa Bắc Việt an toàn khi chúng lái xe trên đường mòn Trường Sơn, lúc nghe máy bay Mỹ oanh tạc, chỉ cần lái x e ra khỏi vị trí 200m, là hết chuyện. Còn điều 6 thì cấm quân Mỹ truy kích VC, nếu chúng rút qua biên giời Lào hay Kampuchia. Biếy vậy, nên hầu hết các căn cứ của Bắc Việt, kể cả cục R đều đươc lập sát hay bên kia biên giới, nên rất an toàn. Do trên các cuộc hành quân vượt biên mang tên Toàn Thắng, vào năm 1970 tại Miên hay hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, vào thời TT Nixon, đã bị đảng Dân Chủ Mỹ thân cộng, căn cứ vào luật chiến đấu, la ó phản đối dữ dội. Cuối cùng tại Quốc Hội, cũng cái đám nghị sĩ-dân biểu đảng Dân Chủ Hoa Kỳ, ra luật cấm quân lực Hoa Kỳ hành quân vượt biên khỏi Nam VN. Những bí mật nhỏ nhoi trên, chỉ là một trong muôn ngàn điều bật mí sau này, cũng là lý do, khiến cho Mỹ cũng như VNCH, dù đã nỗ lực và hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, xương máu nhưng cuối cùng vẫn không ngăn nổi cuộc tiến quân của Bắc Việt, trên đường mòn HCM.

            Theo Ðồng Sĩ Nguyên, phụ trách Binh Ðoàn 559A từ tháng 12/1966 tới tháng 4/1975, thì đơn vị này có gần 2000 xe vận tải và 4 binh trạm, với nhiệm vụ tải người và quân dụng từ miền Bắc vào Nam. Quân số của Binh đoàn 559A trên 120.000 người, gồm 10.000 thanh niên xung phong, 1 sư đoàn cao xạ phòng không của Bộ TTM/VC tăng phái và tám sư đoàn vận tải, chiến đấu trực thuộc. Sau ngày ký hiệp định ngưng bắn 1973, cọng sản Bắc Việt bãi bỏ giai đoạn gùi thồ đường đất và binh trạm, mà công khai chuyển quân từ bắc vào nam, mỗi lần cả sư đoàn tới binh đoàn, kể cả tăng-pháo, trước sự bất lực của VNCH khi Hoa Kỳ đã phủi tay về nước. Do trên cuộc hành trình chỉ mất 12 ngày, thay vì 4 tháng như trước, nên VC lúc nào cũng đủ quân số và quân dụng, vì có cả một núi người sẵn sàng “ sinh bắc tử nam “, cũng như các nước xã hội anh em, nhất là Trung Cộng, hết lòng chi viện. Trong lúc đó, VNCH chiến đấu với cả khối cọng sản đệ tam quốc tế trong cô đơn nơi chiến trường, đã vậy còn bị bọn cốt người mà óc khỉ tại hậu phương, công khai đâm hùa trí mạng. Chiến đấu trong hoàn cảnh thê thiết như vậy, không mất nước mới là chuyện lạ ?

A - ÐƯỜNG MÒN TRƯỜNG SƠN :

            Hầu hết con đường chiến lược HCM đều nằm trên rặng Trường Sơn, kể cả tuyến xuất phát tại Vinh (Nghệ An), cho tới đoạn cuối cùng rẽ vào Phước Long. Rặng Trường Sơn là xương sống của Trung phần, khởi đầu từ sông Cả tới sông Bông (Quảng Nam), chạy dọc theo biên giới Việt Lào. Từ bắc vào nam, có nhiều rặng núi cao trên 2500m, như Pu-Sai-Lai-Leng ở Nghệ An cao 2711m, Vụ Quang tại Hà Tĩnh cao 2286m, A Tuất ở Thừa Thiên cao 2550m.. Nhưng nhờ có nhiều đèo như Kéo Nưa trên núi Bà Mụ, đèo Mụ Giạ ở Hà Tỉnh, đèo Lao Bảo trên quốc lộ 9, nên sự thông thương giữa Lào-Việt rất thuận tiện. Từ năm 1960 về sau, Bắc Việt lợi dụng những đường đèo trên, để nối liền nhánh Trường Sơn Ðông ở VN sang Trường Sơn Tây, hoàn toàn nằm trên đất Lào.

            Rặng Trường Sơn từ phía nam sông Bông tới Miền Ðông Nam Phần, được gọi là Cao Nguyên Nam Trung Phần, vì độ cao chỉ còn trung bình 1000m, trừ phía bắc tỉnh Kon Tum, cửa ngỏ của Bắc Việt xâm nhập vào Vùng 2 chiến thuật, lại có nhiều rặng núi cao, rất đồ sộ và hiểm trở như Ngọc Lĩnh (2598m), Movia (2338m), Ngok Krin (2215m). Tại tỉnh Pleiku, cao nguyên Nam Trung Phần, hơi cao ở mạn đông tại ranh giới các tỉnh Phú Bổn, Bình Ðịnh nhưng lại thấp dần ở Miền Ba Biên Giới. Lợi dụng địa thế thiên nhiên vùng này, Hà Nội đã làm một nhánh rẽ, từ Ðức Cơ-Pleime xuống miền duyên hải Trung phần.

            Khởi đầu từ năm 1959, đường mòn HCM do Hai xe ngựa (Võ Bẳm) sáng tạo, thật sự chỉ là một tuyến đường gùi vô cùng bí mật, với “ đi không để dấu, nấu không để khói và nói không thành tiếng “.Sau đó theo thời gian và nhu cầu chiến cuộc, tuyến gùi phát triển dân thành tuyến đường thồ xe đap, rồi đường xe ô tô với đường dây điện thoại cùng hệ thống ống dẫn dầu, chạy song song kế đường mòn. Có thể gọi đây là một Bát Trận Ðồ cũng không ngoa chút nào vì con đường có tới hằng trăm, hằng ngàn nhánh nhỏ, chạy chằng chịt dọc ngang, từ đông sang tây, khắp nam tới bắc, chẳng biết đâu mà mò, kể cả VC, nếu không có giao liên hướng dẫn, vẫn bị lạc chết đói, như Dương Thu Hương đã kể trong tiểu thuyết “ Vô Ðề “.Sau năm 1973 khi hiệp định ngưng bắn ra đời, Kissinger cho phép quân Bắc Việt ở lại VNCH hợp pháp như là một thực thể chính trị, giúp Hà Nội ngang nhiên xây dựng con đường chiến lược trên, thành một xa lộ đất xe cộ xuôi ngược rộn rịp đêm ngày. Năm 1974, chủ tịch cọng sản Cuba là Fidel Castro đã tặng cho Hà Nội, một dàn thiết bị máy móc, làm cầu đường do Nhật chế và còn giúp một đơn vị công binh, tới tận Quảng Trị hướng dẫn công binh Bắc Việt, làm chiếc cầu dây treo Dakrong, nằm trên ngã tư Khe Sanh-Tchépone và đường mòn. Sau đó chính Fidel Castro tới tận chỗ để làm lễ khánh thành cầu, còn được hướng dẫn đi thăm Ðông Hà, mà Bắc Việt khoe là vùng giải phóng, từ sau trận Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972.

            Theo các tài liệu hiện hành của cả mọi phía, có trong thư viện và báo chí VC sau này, thì hệ thống đường mòn HCM, chạy dài từ Trung Lào tới Cam Bốt, sự thật là hoàn toàn nằm trên lãnh thổ Lào-Miên. Con đường này được xâm nhập vào lãnh thổ VNCH bằng năm nhánh rẽ với 21 trục giao liên, có chiều dài tính theo đường đất tổng cộng hơn 12.000 dặm Anh. Con đường được mang nhiều tên và chỉ có đọan trên lãnh thổ Bắc Việt, mới được gọi là đường Hồ Chí Minh. Riêng khúc đường chạy trong lãnh thổ Lào và Nam VN lại có nhiều tên như đường Thống Nhất, Dân Tộc Giải Phóng và Cách Mạng. Còn đoạn cuối trên đất Miên là đường mòn Sihanouk. Ðể bảo toàn bí mật, tất cả hàng hóa, quân dụng, vũ khí và bộ đội xuất phát từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) hay Vinh (Nghệ An), đều được đưa tới cửa ngõ Tân Kỳ (Nghệ An) hay Quán Trại (Ðức Tho-Hà Tĩnh), để vào Quảng Bình và Quảng Trị, rồi từ đó mới xuất tuyến xâm nhập vào Nam. Nhưng đường đi, dù ở trong lãnh thổ Bắc Việt, vẫn vô cùng nguy hiểm, vì bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc hằng ngày, nhất là tại thung lũng tử thần Ðồng Lộc. Ở đây, đường chạy giữa hai rặng núi cao, bên này là Rú Mòi, còn phía kia mang tên Sọ Voi. Ðây chính là cửa ngỏ đầu tiên, của đường mòn HCM, nối liền bắc VN tới lãnh thổ Lào. Từ đó đường mòn mang tên Trường Sơn Tây, tiếp tục tới Khâm Muôn (Lào), thì gặp Ðường 20 Quyết Thắng, từ Phọng Nhạ (Quảng Bình) sang. Khúc đường này dài hơn 127 km, chạy len lỏi giữa khu rừng già Kẽ Bàng và miền hoang địa Bulapha của Lào.

            Theo báo Aux Ecoutes du Monte, thì hải cảngVinh (Nghệ An), là yết hầu của đường mòn HCM, vì gần như mọi thứ đều xuất phát ở đây, để xâm nhập vào Nam. Cũng từ đây, đường được phân làm ba nhánh qua Lào, để tránh thiệt hại vì sự oanh tạc của máy bay Mỹ. Riêng tổng hành dinh của Ðoàn 559A, thì đóng rải rác trong khu tam giác các thị trấn Napé, Kamkeut,Kanmon.. nằm dọc theo con sông Nam Pao của Lào. Ðây là một quân chủng đặc biệt của cọng sản Bắc Việt, gồm công binh, vận tải, trách nhiệm bảo trì, sửa chữa con đường, đồng thời phân phối quản trị đoàn dân công, xe tải chuyển vận bộ đội, vũ khí, tiếp liệu từ bắc vào chiến trường miền Nam.

            Tại ngã ba Khâm Muôn, giao điểm của hai nhánh Quyết Thắng 20 và Tân Kỳ, đường mòn HCM, đi vào khu rừng già Hạ Lào, cặp kè với con sông Nam Cà Dinh, chạy tới đỉnh dốc đứng 1001 trên núi Răng Cọp. Từ đây đường mòn đổi tên thành Trường Sơn, sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, để tới thị trấn Tchepone (Muang Xepon) nằm trên quốc lộ 9. Ðây cũng là phân nhánh đầu tiên của đường mòn Trường Sơn, xâm nhập lãnh thổ VNCH, để tấn công các căn cứ quân sự Lao Bảo, Khe Sanh, Làng Vei, Cà Lu.. trong tỉnh Quảng Trị. Sau đó, đường mòn vẫn tiếp tục chạy trên đất Lào tới núi Ấp Bia (937m), một địa danh nổi tiếng, trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), được một ký giả ngoại quốc, chứng kiến tận mắt cảnh hàng ngàn xác bộ đội Bắc Việt, bị banh thây bỏ lại tại chiến trường, vì bom dạn phi pháo, nên đã đặt là Hambuger Hill. Tại đây, đường lại được phân nhánh tới các thung lũng A Lưới, Tà Bạt và A Shau. Ðậy là bàn đạp mà Hà Nội tập trung bộ đội, để tấn công Thừa Thiên và Ðà Nẳng. Sau khi vượt qua cao nguyên Boloven gần ngã ba biên giới Việt-Lào-Miên, đường mòn lại phân thành hai nhánh khác chạy vào lãnh thổ VNCH, một nhánh phát xuất từ Savarane tới Dakto, Tân Cảnh, Kontum.. trước khi ngang qua các trại Lực Lượng Ðặc Biệt Benhet, Dakto.. Nhánh khác từ Attopeu vào Pleiku, ngang qua Trại LLÐB Ðức Cơ, Pleime. Nằm giữa hai nhánh rẽ này vẫn trên đất Lào, là mật khu 609 của Bắc Việt. Kể từ đây, đường mòn Trường Sơn đổi thành đường mòn Sihanouk, với nhiều mật khu như 702,701,740, 203,351,350 và 400. Trên đất Miên, đường mòn có một nhánh rẽ vào Phước Long và phần cuối cùng chạy xuống tận hải cảng Kampong Som (Sihanouk Ville) của Miên. Chính tại đây, Bắc Việt nhận trực tiếp hàng hóa viện trợ của Nga,Tàu và Ðông Âu, tới năm 1970 mới chấm dứt, khi Sihanouk bị Lonnol lật đổ. Nhờ đó Hoa Kỳ và QLVNCH mới được phép hành quân sang đất Miên theo lời yêu câu của chính phủ mới, nên mối tiêu diệt gần như tất cả các mật khu của Bắc Việt tại đây, qua các cuộc hành quân Toàn Thắng và Cửu Long.

            Tóm lại suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, ngoài số nạn nhân chết bởi bom đạn, giao tranh, phần lớn bộ đội, cán binh cọng sản miền bắc, được ghi nhận là ngã gục trên đường Trường Sơn, vì trăm ngàn nổi gian lao cực nhọc và bệnh tật, đó là chưa kể tới chết khi đụng trận, bị bom đạn oanh tạc, mìn bẩy. Hàng vạn nấm mồ hoang lạnh, được vùi lập vội vàng, trên con đường dài heo hút, chỉ một thời gian ngắn, đã biến thành phân mục, bón xanh thêm cây lá rừng hoang, như Trần Xuân Lợi, một bộ đội vượt tuyến đã viết :

“ Những hồi mưa ngớt
Tựa nghĩ gốc cây
Nhìn rừng không nói
Nhìn mây chẳng thấy
Chỉ có núi đèo
Kế nhau nối tiếp
Oại là khủng khiếp
Cho cảnh Trường Sơn ..”

Hay : “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ, chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, áo bào thay chiếu anh về đất, sông nuí gầm vang khúc độc hành ố Quang Dũng “.Tất cả là sự thật, mà Ðại Tá Võ Ðại Tôn, tức nhà thơ Hoàng Phong Linh, trong cuộc Ðông Tiến bất thành, khi trở về VN để giải phóng quê hương sau năm 1975, đã ghi lại :

“ Ðỉnh núi cao mây vờn,
đá nghìn năm quên tuổi
ta lạc loài như dã thú không tên
qua Tchépone, Boloven
về Hạ Lào thăm thẳm
Atopeu đường xa muôn dặm
Rừng tây nguyên heo hút trong tim ..”

            Con đường có rất nhiều đoạn dài, xuyên giữa rừng già bất tận, phi cơ quan sát hay không ảnh cũng bó tay, ngoại trừ sự xâm nhập của các Toán Biệt Kích, thuộc binh chủng LLDB/VNCH.

            Ðể bảo vệ con đường chiến lược này, Bắc Việt thành lập Ðoàn 559A, gồm nhiều binh trạm, mỗi nơi có quân số tương đượng một trung đoàn tác chiến. Giữa hai khu vực, có các toán giao liên và các kho dã chiến. Vùng nào lo vùng nấy, không ai biết gì tới các khu vực lân cận. Tóm lại, Ðoàn 559A chỉ có trách nhiệm từ vĩ tuyến 17 đổ vào nam mà thôi. Riêng phía bên này vĩ tuyển ra tới Bắc Việt, bổn phận tái tạo và giữ tốt, các tuyến đường giao thông, tiếp vận cho chiến trường, được giao cho hàng vạn thanh niên nam nữ, trong ba tổng đội Thanh Niên Xung Phong. Do trên đã có không biết bao nhiêu người tuổi trẻ, phải gục chết giữa bom đạn, khi bị bắt buộc bám trụ tại chỗ, để mỗi lần phi cơ Mỹ oanh tạc vừa dứt, thì họ với sức người và cuốc xẻng, ào ra chiến trường, để lấp hố bom trên mặt đường vừa bị cầy nát. Bởi thế giao thông không bao giờ bị gián đoạn.

B - CÁN BINH, BỘ ÐỘI BẮC VIỆT TRÊN ÐƯỜNG MÒN HCM :


            Với mục đích lường gạt dư luận thế giới, đánh lận con đen, chối bỏ việc trắng trợn xâm lăng VNCH, nên cọng sản Bắc Việt lúc nào cũng tổ chức cuộc chuyển quân vào Nam, thật bí mật. Thêm vào đó là sự phụ họa rất ăn khớp nhịp nhàng của một số báo chí theo VC tại miền Nam, nên Hà Nội gần như đâm mù cả nhân loại, khiến ai cũng tin là cuộc chiến tại miền nam, là do chính người miền nam vì bất mãn chính phủ độc tài tàn bạo, nên nỗi loạn chống phá, chứ miền bắc không hề can dự. Thời gian đầu cuộc chiến, việc chuyển quân từ bắc vào nam, thật vô cùng khó khăn nguy hiểm. Vì thế chỉ có bộ binh vượt tuyến mà thôi. Còn vũ khí quân dụng, được chuyển vận bằng ghe thuyền tại tuyến đường 559B trên Ðông Hải, do Ðồng văn Cống phụ trách. Trước tết Mậu Thân 1968, bộ đội Bắc Việt vào Nam, được bồi dưỡng và huấn luyện trong thởi gian 8 tháng, với tiêu chuẩn 2 đồng 40 xu tiền Hồ/1 ngày. Trước khi lên đường “ sanh bắc tử nam”, các cán binh bộ đội được cấp 5 ngày phép về thăm gia đình. Vì chủ nghĩa xã hội miền bắc rất công bình, con trốn quân dịch, cha mẹ dù có già 100 tuổi vẫn phải đi thế, ngoài ra tất cả tem phiếu, sổ gia đình đều bị tịch thu. Nên trong một xứ mà tất cả nhu yếu phẩm đều phải bó buộc mua tại cửa hàng quốc doanh, chợ nhà nước, thì đâu có ai dám không đi lính, để vừa khổ thân lại làm liên lụy cho gia đình. Ở Bắc Việt, củng không có chùa, nhà thờ và trường đại học, nên cũng không có chế độ hoãn dịch vì tu xuất hay học hành. Còn du học hay xuất ngoại , thì chỉ dành ưu tiên cho con cái và gia đình cán bự cỡ tổng bộ trưởng và hàng trung ưởng đảng, nên sau khi hết phép, ai nấy đều trở lại để lên đường vào Nam theo lệnh đảng.

            Trên đường tiến quân còn trong lãnh thổ Bắc Việt, các đơn vị chính quy hành quân, vẫn sử dụng quân phục cố hữu bằng vải kaki Nam Ðịnh, với mũ bầu có bọc vải dầu, màu xanh lá cây. . Quân xa sẽ chở bộ đội tới Lào, qua một trong ba tuyến đường chiến lược, nối liền hai nhánh Trường Sơn Ðông và Tây, tại Ðồng Lộc (Hà Tĩnh), Phong Nhạ (Quảng Bình) và Vĩnh Linh (Quãng Trị), để tới biên giới VNCH. Tại đây, bộ đội cọng sản Bắc Việt, sẽ lột xác hoàn toàn thành người “ Giải Phóng Quân “ trong MTGPMN của Anh Tho., chi Bình, chị Ðịnh.Bến Tre lập ra. Tóm lại tất cả những gì có liên hệ tới cọng sản miền Bắc, đều phải hoàn trả hết cho cán bộ chính trị đơn vị. Từ đây bộ đội chính quy miền bắc là giải phóng quân miền nam, dù cả hai đều là đảng ta đó, nên phải mặc đồ bà ba đen, khăn rằn quàng cổ, mang dép râu, đội mũ tai bèo, y chang như VC tại Nam phần đã sắm tuồng từ năm 1960. Cả tới cờ hiệu, cũng phải dùng cờ MTGPMN, nửa xanh nửa đỏ giữa có sao vàng. Còn bài hát thì đã có bản “ Giải phóng miền nam “ của Nguyễn Minh Siêng tức Lưu Hữu Phước.

            Trước khi hiệp định Ba Lê 1973 ký kết, nhằm hợp thức hóa cũng như cho phép bộ đội chính quy Bắc Việt, được công khai đóng ngay trên lãnh thổ VNCH, thì sự di chuyển trên đường mòn HCM rất khó khăn nguy hiểm, kể cả các tuyến giao thông chiến lược, nối Bắc Việt với nhánh Trường Sơn Tây, nằm trong lãnh thổ Trung Lào, vì phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc ngày đêm liên tục. Nên chỉ riêng đoạn đường, từ điểm xuất phát đầu tiên tại Tân Kỳ (Nghệ An), tới thi trấn Tchepone (Hạ Lào), cũng phải mất từ 2 -3 tháng. Sau đó các đơn vị bộ đội chính quy miền bắc, được các toán giao liên hướng dẫn vượt tuyến và xâm nhập các trục vào lãnh thổ VNCH để hoạt động, tuỳ theo nhiệm vụ được đảng giao phó. Sau tháng 2-1973, không quân Hoa Kỳ chính thức rút khỏi cuộc chiến, còn VNCH thì không đủ phương tiện để ngăn chân, nên Bắc Việt gần như công khai hoạt động, không cần che đậy để lừa bịp dư luận như trước. Do trên, con đường mòn được tu bổ thành một xa lộ đất. Dọc đường, thiết lập nhiều khu dưỡng quân, bệnh xá, kho tiếp liệu. Song song là một hệ thống ống dẫn dầu, xăng cùng một đường dây điện thoại cao thế, do Liên Số và các nước Ðông Âu cung cấp viện trợ, bom dầu từ các tàu nhiên liệu cập bến ở Nghệ An. Tại các mật khu cũng như địa điểm trọng yếu, Bắc Việt cho bố trí một mạng lưới phòng không dầy đặc, với đủ loại súng đại bác do Nga Sô, Ðông Ðức viện trợ như súng cao xạ, hỏa tiễn loại 35 và 57 ly. Từ năm 1965 tới 1967, ước chừng 7000 bô đội chính quy xâm nhập miền Nam hằng tháng. Trong đợt tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, quân số cọng sản Bắc Việt, có mặt tại lãnh thổ VNCH hơn 100.000 người. Ðể chuyên chở người, quân dụng và vũ khí vào Nam trên đường mòn Trường Sơn, Hà Nội đã huy động một số quân xa, từ 1250 -1700 chiếc. Những quân xa này đều do TRung Cộng, Liên Xô viện trợ, gồm các hiệu Zills, Molotova.. loại 130 bốn bánh và 157 sáu bánh, có trọng tải từ 4-6 tấn. Ngoài ra có một đoàn dân công khổng lồ, thi hành theo cái gọi là “ nghĩa vụ lao động “, từ 16-55 tuổi “, không phân biệt nam nữ, để giữ hộ khẩu và được sống yên trong chế độ công an khu vực. Hàng hóa phần lớn được chuyển vận vào Nam bằng sức người, xe đạp và voi.

            Sau tháng 5-1975 chiến tranh chấm dứt, có rất nhiều bí mật được bất mí, phần lớn nhằm làm sáng tỏ lý do thất bại của Quân Lực Ðồng Minh, Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc chiến Ðông Dương, mà nỗ lực chính là ngăn chận và phá vỡ hệ thống đường mòn Trường Sơn, hành lang chính để cán binh bộ đội cọng sản Bắc Việt, xâm lăng Miền Nam. Ðồng thời phơi bày ra ánh sáng, thảm trạng “ Mạng người lá rụng “ vì đường đi không tới, của hằng trăm ngàn người “ sinh bắc tử nam “.Tất cả nạn nhân chiến tranh trên, chẳng có ai vì nhiệt tình cách mang, ngu để phải chết thảm thê vì đụng độ, máy bay oang tạc, hải pháo và bệnh tật không có thuốc men chửa trị. Và dù phía VNCH không đạt được chiến thắng cuối cùng nhưng rõ ràng Họ đã tiêu diệt và phá vỡ gần hết những mật khu quan trọng của Bắc Việt, trên đuờng mòn Trường Sơn, như 604 tại yết hầu Tchépone-Hạ Lào và 611 trong thung lũng Ashau, gồm nhiều binh trạm, hậu cần, ống dẫn dầu cùng các tổng kho tiếp tế. Tác giả Lane Rogers cũng là Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từng tham dự nhiều trận chiến trên đường mòn, đã viết :” Ðể bảo vệ và hoạt động được liên tục trên hành lang chuyển quân, Bắc Bộ Phủ đã thí quân một cách vô nhân đạo. Ðó là lý do nhiều lần con đường chính và năm nhánh rẽ vào Nam VN, tưởng như đã bị phá vỡ hoàn toàn. Nhưng rồi đoàn kiến người cũng tìm đủ mọi ngõ ngách khác để xâm lăng miền Nam. Riêng Thống Tướng Westmoreland,cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và Ðồng Minh, chiến đấu tại VN, thì giải thích lý do thất bại của Mỹ, trong nỗ lực hủy diệt con đường này, phần lớn do trở ngại thiên nhiên,là chốn ma thiêng nước độc, gây sự sợ hãi chết chóc nhiều nhất trên thế giới.

3 - Máu Ðẵm Trường Sơn (1960-1975) :

            Hai mươi năm chiên cuộc VN, đã cướp mất đi hằng triệu thanh niên nam nữ hai miền đất nước, cũng như đồng bào vô tội. Sự tủi nhục và đau lòng nhất, riêng chỉ có kẽ trong cuộc và dân chúng xã nghĩa Bắc Việt mới hiểu thấu. Riêng người miền Nam sống tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cần Thơ.. gần hết chỉ hiểu một cách đại khái, mù mờ, qua tài liệu, báo chí và sự tuyên truyền của cả hai phía. Họ đâu có bao giờ biết rằng, trong suốt cuộc chiến, Bắc Việt, Hoa Kỳ và QLVNCH, đã dành giựt từng thước đất trên đỉnh Trường Sơn, vì một bên thì quyết lòng dùng máu xương người để xây huyết lộ, còn phía bên kia cũng lấy mạng sống, bom để phá hủycho tận tuyệt. Nói chung cả hai phía đều sử dụng tối đa mạng sống con người Việt, qua các khẩu hiệu hào nhoáng nhưng mặt thật, cũng chỉ để phục vụ cho quyền lợi riêng tư của họ mà thôi.
           
A-VỀ PHIÁ CỌNG SẢN BẮC VIỆT :

            Sau khi Thủ Tướng Liên Xô Nikita Khrowshchev, phát pháo mở màn cuộc chiến giải phóng toàn cầu vào ngày 6-1-1961, cũng là thời gian khởi đầu cho tới ngày 30-4-1975, Bắc Việt xâm lăng cưỡng chiếm VNCH. Ngoại trừ các chóp bu ngồi tại Bắc Bộ Phủ, không ai có thể biết rõ, đã có bao nhiêu cán binh, dân công và thanh niên xung phong đã bị thương vong vì cuộc chiến. Phần thì cọng sản quen bưng bít sự thật, hơn nửa trong chủ nghĩa thiên đàng, không có chế độ thương binh ngoài mặt trận. Nên tất cả những điều Ðảng tuyên bố, gần như là tuyên truyền láo bịp, nên sự thật đâu biết sao mà mò ? Nhưng chắc chắn có điều, gần hết các trận đánh khốc liệt , đều xảy ra trên hành lang chiến lược Trường Sơn, từ sự hủy diệt bằng bom mìn, hàng rào điện tử, chiến tranh khí tượng, thuốc khai quang, không quân cho tới những đụng độ trực tiếp giữa Bắc Việt với Hoa Kỳ và VNCH, mà cao điểm là cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại Hạ Lào-1971.

            Trên lãnh thổ Bắc Việt, trực diện với bom đạn hằng ngày, là những nam nữ thanh niên, trong các Tổng Ðội Thanh Niên Xung Phong. Nhiều người đã bị chết một cách oan khiên tức tưởi, tại ngã ba Ðồng Lộc (Hà Tĩnh), Ðường 20 Quyết Thắng (Quảng Bình), Hưng Hóa (Quảng Trị ).khi bị bắt buộc thi hành các công tác hiểm nguy như giao liên đơn độc giữa rừng núi muôn trùng, làm mốc hướng dẫn đoàn xe đến các địa điểm tránh bom Mỹ.. Trong muôn ngàn thảm kịch, được đưa lên phim quảng cáo, vẫn thảm nhất là cái chết của 10 cô gái TNXP, thuộc Tiểu Ðội 4/Tổng Ðội 53 ố Hà Tĩnh, bị bom đánh sập, chôn sống tập thể tại Ngã Ba Ðồng Lộc, vào sáng ngày 24-7-1968. Hoặc chuyện bốn cặp TNXP và công binh, cũng bị chết ngạt trong một cái hang núi tại Kẽ Bàng (Quảng Bình).. Nhưng đây cũng chỉ là một trong hằng triệu cái chết vô danh của phận người xấu số trong chiến tranh, nếu đem so sánh với những cái chết khác tại các tuyến đường rẽ vào lãnh thổ VNCH.

            Không kể đến sự đụng độ thường xuyên giữa các Toán Biệt Kích Quân cảm tử, thuộc Binh chủng LLDB/VNCH và cán binh Bắc Việt, trên mọi ngõ ngách của đường mòn Trường Sơn, ngay cả trong lãnh thổạ Bắc Việt. Kể từ năm 1965 tới khi có Hiệp định Ba Lê 1973, đã có không biết bao nhiêu trận đánh lớn giữa cọng sản miền bắc và quân lực Ðồng Minh, Hoa Kỳ cũng như QLVNCH. Ðiển hình như các trận PLEIME -1965, giữa Toán A217 biệt kích Mỹ-Việt, TÐ91BCD/LLDB, TD1/TrD45/SD23BB, TD21+22/BDQ,Chi Ðoàn 3 Thiết kỵ/VNCH với 3 Trung Ðoàn 32,33,66 cong sản Bắc Việt. Ngày 27-10-1965, SD1kỵ binh không vận Hoa Kỳ, hành quân tại thung lủng IA-DRANG, Pleiku, bẻ gãy âm mưu tập trung của 3 SD Bắc Việt, nhằm chia cắt VNCH thành hai mãnh. Tháng 12-1965, Bắc Việt lại tấn công 2 Trại LLDB .Tà Bạt, A Lưới (Thừa Thiên), một trận đụng độ đẵm máu giữa cọng và Mỹ+VNCH tại căn cừ Ashau, một tiền đồn ngăn chận cán binh Hà Nội, tràn xuống miền duyên hải.

            Mùa thu năm 1967, Bắc Việt tấn công đồng loạt nhiều tiền đồn VNCH trên đường rẽ vào Chiến khu C (Phước-Bình Long) cũng như Kontum, vì 2 khu vực này là cửa ngõ chiến lược quan trọng nhất trên hành lang xâm lăng VNCH của cọng sản Bắc Việt. Ðể giải tỏa áp lực tại Tiền đồn Dakto, 16 tiểu đoàn thuộc SD4BB +SD.Dù/Hoa Kỳ và Lực lượng Nhảy Dù VN, đã ác chiến với 1 SD.Bắc Việt, thương vong hai phía rất nặng.

            Trên QL9 từ Hạ Lào vào Quảng Trị, có Tiền Ðồn Khe Sanh là căn cứ của Biệt kích quân VNCH, thành lập từ tháng 7-1962. Ðây cũng là điểm xuất phát các Phi Vụ Tiger Hound rải quân xâm nhập đường mòn HCM. Như các căn cứ Cồn Tiên, Gio Linh, Caroll, Cam Lộ.. Khe Sanh là các tiền đồn, đối diện với vùng biên giới phía bắc khu phi quân sự vỹ tuyến 17 lãnh thổ Bắc Việt. Bởi vậy cọng sản luôn tìm mọi cách tiêu diệt cái gai nhọn Khe Sanh, đâm vào yết hầu đường mòn Trường Sơn. Cuối năm1967, trưóc khi mở màn cuộc tấn công đẫm máu Tết Mậu Thân 1968, Võ Nguyên Giáp đã mở một mặt trận Ðiện Biên Phủ thứ 2 tại thung lũng Khe Sanh, với ý muốn dụ quân Mỹ vào rọ để tiêu diệt như đã từng xảy ra vào năm 1954 trên đất bắc. Nhưng Giáp đã tính toán sai, vì Hoa Kỳ mạnh hơn Pháp cả 100 lần, lại có một lực lượng hải pháo không quân hùng hậu, nên cuối cùng Bắc Việt phải chém vè về Hạ L2o, bỏ lại tại Khe Sanh hơn 20.000 xác bộ đội, tỷ lệ 90% quân số tham dự trận chiến. Cũng tại đây, ngoài quân Mỹ, còn có một đơn vị VNCH duy nhất được tăng phái, đó là TD37 Biệt Ðộng Quân. Ðơn vị này dù quân số ít ỏi, lại bị nằm tiền đồn nhưng suốt thời gian chiến cuộc, đã giữ vững được phòng tuyến phía nam của căn cứ Khe Sanh, qua nhiều đợt tấn công biển người của SD304 Bắc Việt.

            Trong cuộc tổn công kích Tết Mậu Thân 1968, cọng sản thất bại hoàn toàn trên chiến trường, nên hầu hết tàn binh đều rút về phía bên kia biên giới Việt-Miên-Lào, trên đường mòn Trường Sơn. Phía VNCH và Hoa Kỳ đã mở nhiều cuộc hành quân truy quét. Tại Vùng 1 chiến thuật, ngày 16-4-1968 SD1ky binh Mỹ + TrD3/SD1BB/VN hành quân Lam Sơn 216-Dela Ware tảo thanh vùng A Lưới. Kế tiếp hành quân Sonerset Plain Lam Sơn 246 của SD101Dù Mỹ + TrD1/SD1BB/VN tại vùng A Lưới, Tà Bạt và mật khu 609. Ðầu năm 1969, SD101Dù + TrÐ9/TQLC/HK + TrD3/SD1BB/VN tảo thanh thung lũng A Shau. Vùng này có một ngọn núi cao trên 1000m, nằm ngay biên giới Lào-Việt, như một bình phong án ngữ các căn cứ A Lưới, Tà Bạt, A Sha. Một trận đụng độ kinh khiếp đã xảy ra tại đây giữa hai phía. Cùng tham chiến, không quân, pháo binh và các pháo đài bay B52, đã giội xuống chiến trường hơn một triệu cân Anh bom các loại, trong số này có 152.000 cân Anh bom lửa, khiến cho đồi núi, cỏ cây, rừng xanh và xác cán binh bộ đội cọng sản Bắc Việt bỏ lại khi chém vè, đều biến thành tro bụi. Cảm thương cho số phận con người vì tem phiếu, hộ khẩu, mà phải sinh bắc tử nam, nên một ký giả Mỹ có mặt tại trận địa, viết bài trên báo, đã ví von đặt tên núi Ấp Bia là Hamburger Hill. Sau này, báo chí VC hãnh diện tuyên truyền với thế giới, vì Mỹ chết nhiều quá, nên mới có cái tên ngộ nghĩnh trên.

            Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng trên, gần như làm đảo lộn chiến lược xâm lăng miền nam của Bắc Việt, cũng như chiến thắng gần kề của VNCH, nếu như Nixon-Kissinger không bán đứng Miền Nam cho Bắc Việt, qua cai gọi là Hiệp định Ba Lê 1973. Ðó là cuộc chính biến trên đất Miên vào năm 1970. Ai cũng biết Kampuchia từ năm 1960, là hậu cứ an toàn của cọng sản Bắc Việt, để nhận trực tiếp hàng hóa quân dụng viện trợ của các nước XHCN, tại hải cảng Sihanouk Ville nằm trong vịnh Thái Lan. Ðây cũng là tổng hành dinh của Cục R, đầu não chỉ huy của đảng bộ cọng sản miền nam, qua ngụy danh MTGPMN. Ngày 18-3-1970, Lonnol lật đổ Sihanouk và theo Mỹ. Quân Miên cũng được lệnh tấn công các mật khu của Bắc Việt trên đất Miên. Chiến tranh đã nổ toàn diện trên đất chùa Tháp. Liên quân Khmer Ðỏ của Polpot và VC phản công và bao vây thủ đô Nam Vang, đồng thời người Miên qua sự xúi ngầm của tân chính phủ Lonnol, đã đồng loạt “ CÁP DUỒNG “ Việt Kiều khắp nơi, gây thảm trạng thương đau cho hằng vạn người dân vô tội, bị vạ lây do Bắc Việt gây ra từ mấy năm trước.

            Ðể cưú đồng bào về nước, đồng thời mượn dịp thanh toán các căn cứ địa và cục R tại biên giới Việt-Miên, theo yêu cầu của Lonnol. Do trên,QLVNCH đã tổ chức cac cuộc hành quân rất qui mô, mang tên Toàn Thắng 41,42,43 do QD3 đảm trách. Song xong QD2 cũng hành quân Bình Tây và QD4 có hành quân Cưu Long. Trừ cuộc hành quân Toàn Thắng 43, do lưc lượng hỗn hợp Việt-Mỹ, gồm SD1 Không vận Hoa Kỳ + Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù và Thiết Ðoàn 2 kỵ binh/VN. Tất cả các cuộc hành quân khác, đều đo QLVNCH đảm trách, đã giúp Lonnol chiếm lại thủ đo Nam Vang, hải cảng Sihanouk Ville, đồng thời phá vỡ gần như toàn diện các mật khu của VC, trong đó có Trung Ương Cục R. Trên biển Ðông, Hải quân Mỹ còn tổ chức cuộc Hành quân Market Timer, để truy đuổi các tàu thuyền của Bắc Việt, trong việc chuyển vận quân trang dụng vào Nam, bằng tuyến đường biển 559B.

            Ðể cứu sống đoàn quân xâm lăng đông đảo, đang có mặt ở miền nam, trong lúc các căn cứ tiếp vận tại Miên vừa bị phá hủy, nên cọng sản Bắc Việt đã gia tăng quân lực, bằng mọi giá giữ vững cho được Huyết lộ HCM trên đất Lào, mà trọng điểm là Thị trấn hoang tàn Tchépone. Ðây cũng lý do mà QLVNCH đã mở cuộc Hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào năm 1971, một trận chiếm đẫm máu nhất trong Ðông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Phía VNCH có 17.000 quân tham dự, gồm các SD Nhảy Dù, SD TQLC, SD1BB, Liên Ðoàn 1BDQ và Lữ Ðoàn 1 Thiết Giáp. Về phía cọng sản Bắc Việt có Quân Ðoàn 70B, các SD2, 304,308, SD phòng không.. Quân Mỹ chỉ đóng bên kia biên giới, yểm trợ không vận, hải pháo, pháo binh.. Cuộc hành quân kết thúc ngày 25-4-1971 sau khi Trung Ðoàn2/SD1BB/VNCH tiến vào thị trấn Tchépone. Dù bị thiệt hại rất nặng nhưng QLVNCH đã phần nào đạt được mục tiêu chiên lược, là phá hủy hoàn toàn nhiều căn cứ tiếp liệu của Bắc Việt, tại mật khu 609 và 611 trên đường mòn HCM.

B-VỀ PHÍA VNCH :

            Trong suốt cuộc chiến, hầu như tất cả mọi binh chủng của QLVNCH đều có mặt tại đường mòn Trường Sơn, kể cả Cảnh Sát Dã Chiến, Xây Dựng Nông thôn, DPQ+NQ.. Tuy nhiên đã có một Binh Chủng Ðặc Biệt, từ ngày thành lâp vào năm 1957, tới khi rã ngũ tan hàng, đã đơn độc hoạt động âm thầm trong lòng địch , trên suốt đường mòn HCM từ đông sang tây, ngay cả trong lãnh thổ của Miên và Lào. Họ là những chiến sĩ “ BIỆT KI’CH-BIỆT CÁCH “, không có sự yểm trợ nào của đơn vị bạn và hoàn toàn tụ lực cánh sinh để mà sống trong núi rừng, nhiều nơi chưa hề có dấu chân người.

            Binh chủng LLDB có cấp số sư đoàn, bao gồm các đơn vị như Sở liên lạc, Sở công tác, Sở khai thác địa hình, các liên đoàn tác chiến 31, 77, 81 Biệt cách nhảy dù và Trung tâm Huấn luyện LLDB.Ðông Ba Thìn tại Cam Lâm-Khánh Hòa.

            Như Kinh Kha ngày xưa, các chiến sĩ Biệt Kích ra đi ít khi được trở về. Một số ít đã bị bắt tại Bắc Việt và chịu kiếp tội đồ, tới nay nhiều người vẫn còn chưa được thả. Vì họ chính là kẻ thù không đội trời chung và cũng là khắc tinh của cọng sản, trên suốt đường mòn. Tóm lại nơi nào có VC thì nơi đó có LLDB. Hai bên đã trường kỳ đấu trí trong suốt cuộc chiến , qua đủ mọi hình thức. Nhưng vì lý do bảo mật, nên cả hai phía, đều không muốn nhắc tới.

C-VỀ PHÍA HOA KỲ :

            Từ năm 1961, Lào trở thành một quốc gia trung lập, nên chính phủ Mỹ đã bị Quốc Hội, nhất là tên thượng nghị sĩ đảng dân chủ thân cộng William Fullbright và cái gọi là ủy ban ngoại giao, tìm đủ mọi cách ngăn chận cấm đoán quân Mỹ can thiệp vào đất Lào. Trong lúc đó, cọng sản Bắc Việt không hề đếm xỉa tới cái gọi là hiệp định Genève 1961, tự tác mở con đường Tây Trường Sơn ngay trên đất Lào, để làm hành lang chuyển quân và tiếp vận xâm lăng miền nam. Cũng do Quốc Hội trói buộc, nên từ đời TT Kennedy cho tới Johnson, cả hai đều dè dặt trong quyết định dùng vũ lực tiêu diệt, ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội, trên đường mòn HCM

            Vì không thể sử dụng bộ binh, để tránh né khỏi bị công luận thế giới và quốc hội chỉ trích, người Mỹ đã dùng các phương tiện chiến tranh khác như oanh tạc, khai quang và dùng hàng rào điện tử. Ngay cả việc sử dụng không quân để oanh tạc cũng vô cùng bí mật, lúc đầu đều do các phi công thuê của Thái Lan, Ðài Loan đảm trách. Về sau vì Bắc Việt đã được Liên Xô giúp thiết trí một mạng lưới phòng không dày đặc, với đủ các loại đại bác, hỏa tiễn tối tân 35,57 ly .. làm nhiều thám thính cơ bị bắn hạ. Vì vậy để thích ứng với hoàn cảnh, Hoa Kỳ quyết định xử dụng những phi cơ oanh tạc Thunderchiefs từ Thái Lan, cùng các phi cơ F105, pháo đài bay B52.từ căn cứ Guam, cũng như các Hàng Không Mẫu Hạm bỏ neo trên Thái Bình Dương, để oanh tạc liên tục con đường mòn HCM, trên đất Bắc, Lào-Miên và trong lãnh thổ VNCH. Riêng chủ trương của Tướng Westmoreland, tư lệnh các lực lượng Mỹ và Ðồng Minh tham chiến tại VN, thì luôn muốn dùng bộ binh, để cắt đứt đường mòn HCM ngay trên đất Lào. Nhưng ông đã bị Quốc Hội Mỹ chống đối kịch liệt vì sợ vi phạm hiệp định Geneve 1961. Ngoài ra Mỹ cũng luôn lo sợ va chạm quân sự với Trung Cộng, khi tung quân vào Lào để hủy diệt con đường chiến lược HCM. Ðây cũng là những bí ẩn trong cuộc chiến VN mới được bật mí. Năm 1968 kế hoạch vượt biên đánh sang Lào để hủy diệt đường mòn HCM, mang tên EL-PASO sắp được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, thì xảy ra trận Tết Mậu Thân 1968 nên chiến dịch trên đã bị hủy diệt.

           
            12 giờ trưa ngày 30-4-1975, nhờ Tổng thống Dương văn Minh với quyền hạn của Vị Tổng Tư lệnh tối cao, ra lệnh cho QLVNCH lúc đó đang còn chiến đấu khắp các mặt trận, buông súng đầu hàng giặc. Nhờ vậy mà đoàn xe tăng của Liên Xô, chở quân cọng sản Bắc Việt, mới bon bon chạy được trên đoạn chót của đường mòn HCM, là đại lộ Thống Nhất-Sài Gòn, rồi ủi sập hai cổng sắt để vào dinh Ðộc Lập, trống trơn không có phòng thủ, lính gác.

            Sài Gòn hai mươi năm dưới chế độ VNCH, gần như lúc nào cũng có biểu tình. Thế nhưng trong ngày “ vinh quang của đảng-bác “, một cơ hội vàng ròng để người miền nam tha hồ xuống đường hoan hô hòa bình, ăn mừng.Tuy nhiên mọi điều xảy ra lại hoàn toàn trái ngược, chứng tỏ người miền nam không phải ai cũng hồ hởi tin hay thân cộng, như một số báo chí thời đó đã xướng. Theo hằng trăm nhà báo ngoại quốc có mặt hôm đó, trong số này có nhiều người thân cộng, cho biết : “ trưa 30-4-1975, khi quân Bắc Việt vào Sài Gòn, đã không có cảnh người thủ đô hàng hàng lớp lớp, túa ra đường, miệng la cờ phất.. như họ từng làm qua nhiều biến cố trong quá khứ. “.Nói chung chỉ có cán bộ đảng và SD304 khăn đỏ tân lập ra chào đón quân ta về, còn dân chúng Sài đô lớp thì chạy trối chết theo chân Mỹ đi ngoại quốc, số khác lo chôm đồ .. nên có ai rãnh để mà biểu tình, xuống đường như đảng mong đợi.

            Sau đó Hà Nội cho thu lượm hài cốt cán binh bộ đội đã chết trên đường mòn, tập trung làm nghĩa trang Trường Sơn, tại xã Gio An, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Còn Tỉnh Uỷ Bình-Trị-Thiên thì tổ chức tour du lịch, để du khách trong và ngoài nước tới thăm mấy cái xác xe tăng Mỹ, cây cầu treo Dakrong do công binh Cu Ba làm tặng và đồi Hambuger Hill.. Riêng đường Trường Sơn tây thì bỏ hoang hoàn toàn và mới đây Lào cho phép Trung Cộng trùng tu, nối liền xa lộ Vân-Nam-Bắc Trung Lào mà tương lai con đường này sẽ thông tới hải cảng Kompong Som của Kampuchia, như năm xưa Bắc Việt đã làm.

            Nay ngồi ngẫm nghĩ , mới thấy nhà văn Xuân Vũ viết “ Ðường đi tới mà không tới “ là đúng sự thật. Bổng thương nhớ biết bao cho bạn bè trong QLVNCH, đã ngã gục ;

            ‘ trăng chiến khu não nùng sầu vạn kỹ
            núi nghìn năm quên tuổi đứng cô đơn
            đoàn quân xưa hào khí ngút mây vờn
            trời quái ác làm vỡ tan tận tuyệt
            .. đây còn có nhiều bạn bè Phan Thiết
            đã vùi thây trong rừng lạnh tây nguyên
            họ bây giờ là những cánh chim đơn
            hót ảo não nơi lũng đèo khe núi.. ’ ’
           
           


Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối Năm 2013
Mường Giang  

Wednesday, October 30, 2013

HALO High Altitude Low Opening - Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió )






1 - Bước qua năm 1970, những cuộc xâm nhập của SOG ( đơn vị chuyên về hành quân Biệt-kích ) bằng trực thăng gặp nhiều khó khăn, hay phải nói...xưa như trái đất!  Yếu tố bất ngờ, nhanh chóng thực hiện xâm nhập bằng trực thăng không còn được kết quả như trước, khi mà địch quân đã có những biện pháp chống lại. Đơn vị chống Biệt-kích của Bắc-việt càng ngày càng tỏ ra hoạt động hữu hiệu, nguy hiểm và thành công. Ý tưởng xâm nhập ban đêm đang được nói đến nhưng các trực thăng không được an toàn khi đáp. Chỉ còn cách nhẩy dù xuống mục tiêu. Nhưng nó đòi hỏi phải có những nhân lực hảo hạng.
          -Chỉ huy trưởng mới của SOG lúc này là Đại-tá John Sadler. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhầy dù và Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió ) Thuật ngữ quân sự gọi là HALO ( High Altitude Low Opening ) Nhẩy dù ở độ cao 10.000 bộ ( 3.050 mét ) Đề rơi tự do, khi còn cách mặt đất khoảng 1.000 hay 2.000 bộ ( 305- 610 mét ) rồi mở dù lái đến mục tiêu. Quân đội Việt nam Cộng hòa chỉ có một số ít, thường là Huấn luyện viên Nhảy dù biết cách nhẩy loại này mà người ta gọi là Nhảy-dù điều khiển.
           -Giữa năm 1970 Đại-tá Sadler ra lệnh thành lập Toán HALO đầu tiên tại CCN. Toán Virginia (Toán Mỹ, người Thượng) được chọn gồm có ba Biệt kích người Mỹ, hai người Thượng và một sĩ quan Lôi-hổ Nha kỹ thuật...Toán lấy tên là Florida...được đưa sang Liên đoàn Biệt kích số 1 của Quân đội Mỹ đóng tại Okinawa (Nhật bản) để bí mật huấn luyện. Chương trình huấn luyện Toán HALO bắt đầu lên khung. Tại trại CCN, song song với phần đông là các Toán Mỹ...có tám Toán Việt-nam tại trại do những cán bộ Nha-kỹ-thuật chỉ huy và phối hợp trong chương trình OP 35 của SOG (hành quân Biệt-kích đặc trách đường mòn Hồ chí minh) Được lệnh tuyển chọn và thành lập Toán Dù điều khiển (HALO) đầu tiên thụ huấn tại Trung tâm huấn luyện Biệt-kích Long-thành gồm có một Sĩ quan Lôi-hổ và năm Biệt-kích quân (SCU) Special Commando Unit được người Mỹ chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật chỉ huy. Rất tiếc trong khóa học người Sĩ quan thiệt mạng vì dù không bung. Chương trình bị trở ngại vì thiếu người chỉ huy dù rằng năm Biệt kích quân cũng đã xong khóa học.
              -Chiến cuộc có những bất lợi do sự rút quân của quân đội Mỹ. Quân đội Việt-nam-cộng-hòa không đủ sức trám vào những khoảng trống chiến thuật được người Mỹ chuyển giao. Trong khi quân Bắc-việt ồ ạt xâm nhập và phát triển hệ thống đường tiếp tế, xây dựng thêm các căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt, Lào...trước sự bỏ ngỏ của Không-quân Mỹ.  Lúc này...SOG phải chiến đấu trong đơn độc. Mọi trợ cấp bị cắt dần dần...ngoài những gì hiện đang có. Đứng trước những khó khăn hiện tại thêm vào quân đối phương biết cách đề phòng và bố trí lực lượng đối phó đã đem lại cho SOG những trở ngại lớn lao kèm theo tốn thất đáng kể về nhân mạng. Đầu năm 1971. Trại được đổi tên mới ... Lực lượng đặc nhiêm 1 (TASK FORCE 1) thay cho tên cũ ...Sở chỉ huy Bắc (CCN)  Cùng với lệnh các Toán thám sát Mỹ không được phép xâm nhập qua Lào, Căm-bốt. Chỉ được hoạt động trong nội địa Việt-nam. Đúng ý của chương trình " Việt-nam hóa chiến tranh" tiết kiệm xương máu lính Mỹ!  Để duy trì hoạt động ngoại biên, SOG đã xử dụng các Toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật vào những mục tiêu tại Lào, Căm-bốt. Đó cũng chính là sự hãnh diện cho đơn vị Biệt-kích trên chiến trường theo đúng nghĩa.
            - Chiếc C47 của hãng vận chuyển Air America từ Đà-nẵng đưa chúng tôi lên Kontum. Vừa xuống phi trường tôi mừng rỡ vì người đón chúng tôi lại là Đại-úy Đại đội trưởng (A Company- Hatchet Force) trước kia ở CCN mà tôi, lúc ấy là Thông dịch cho ông. Tây-nguyên mùa này nắng nóng cuối Hè. Xe Jeep chở chúng tôi vừa ra khỏi tỉnh lỵ. Những đám mây đen lốm đốm dần trôi, chẳng tạo được cơn mưa trong cái nóng hầm hập của thời tiết gần trưa. Ba chúng tôi nằm trong số người đã huấn luyện Nhẩy-dù điều khiển (HALO) được lệnh lên Kontum (TASK FORCE 2) trước kia là CCC...phối hợp công tác. Lần đầu tiên lên đây tôi rất ngạc nhiên vì con quốc lộ dẫn vào tỉnh lỵ như bổ đôi căn cứ Biệt-kích...giống một nút chặn vững vàng bảo vệ cửa ngõ ra vào Tỉnh. Sau ba ngày thực tập chiến thuật và nhẩy hai sô dù đêm. Toán HALO phối hợp đã sẵn sàng gồm ba người Mỹ, ba người Việt-nam. Toán trưởng là Đại-úy cùng hai Trung-sĩ Toán phó. Lực lượng đặc biệt Mỹ. Mọi đồ đoàn đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Toán lên xe lúc trời vừa tối để ra phi trường. Cơn gió mát lạnh từ dòng sông Dak Bla hiếm hoi thổi tung chiếc khăn ngụy trang trên cổ lên mặt làm tôi có cảm giác xa lạ mênh mông trước những gì sắp xẩy ra.


 Phi cơ của Air America (Long Tiếng)


2- Phần đồ đoàn cuối cùng...chiếc ba lô đã được gài vào vị trí dưới cái dù bụng...cây Car 15 thắt bên hông. Con người trở nên nặng nề, dệnh dạng đi ra phía sau đuôi phi cơ...chiếc MC 130 (Blackbird) Dưới ánh đèn sáng từng cặp mắt sau tấm kính trong bộ phận mũ che chắn đầu mặt, kiểm soát lẫn cho nhau. Vị sĩ quan nhiệm vụ thả Toán được lệnh trong chiếc mũ bay ra hiệu cho Toán sẵn sàng...còn hai phút nữa. Cửa phi cơ đã mở. Gió mạnh hồng hộc thổi vào nhưng tôi không cảm thấy lạnh như lúc cửa còn đóng. Đèn xanh đã được bật lên kèm theo tiếng hô của viên sĩ quan thả Toán. Chúng tôi đi vào không trung.


          -Phản ứng tự nhiên tôi nhanh chóng lấy được thế bay. Đưa mắt nhìn xuống đã thấy đốm sáng lân tinh trên lưng người Trưởng Toán...đang chếch về mé trái. Lồng ngực bỗng trì nặng và tôi biết là mình đang trong đám mây. Xoãi tay trái xa thêm, tôi điều khiển thân mình vùn vụt bay theo điểm sáng lân tinh nhưng không xa quá tay để bảo đảm thân mình không bị lật hoặc chúi đầu! Trời đêm tối đen ngòm trừ ánh sáng đốm nhỏ lân tinh phía dưới. Nhìn đồng hồ cao độ tôi chuẩn bị nghe tiếng báo động trong hai tai...âm thanh tiếng reng nổi lên. Gồng hai tay, cụp dần vào hai vai...tay phải đã chạm chốt mở dù, tôi giật ra trong lúc toàn thân theo cái đầu chúi lao xuống...Tích tắc con người như được giữ lại rồi êm đềm tung lên trong lòng sung sướng vì dù đã mở và đưa mắt tìm hai dây lái. Nhìn đồng hồ đeo tay để xác định thời gian và đưa mắt tìm ánh sáng của Toán trưởng...lần này ở phía phải. Kéo dây lái căn hướng gió. Tôi cụp cánh dù dây lái tay phải bay theo điểm lân tinh khi mờ khi tỏ bên dưới. Đống hồ đeo tay đã chỉ gần hai phút tính từ lúc dù mở. Tôi tập trung chuẩn bị đáp đất. Hai tay kéo cụp dù, gống hai chân chụm bằng nhau tôi chờ đợi cú va chạm đầu tiên để bung dù nhằm làm giảm sức rơi. Nhìn bên dưới đêm đen như đen thêm và rồi soạt soạt...tôi vội bung dù hai tay co lại che chắn đầu. Thân mình va chạm vào cành cây, tai cũng đã nghe tiếng cây gẫy. Tiếng phịch vang lên rồi toàn thân ngã ngồi trên đất. Một cái gì đó làm đau nhói ở vai trái...nhìn đồng hồ đã ba giờ, năm phút sáng. Việc đầu tiên tháo cây Car 15 bên hông và vẫn nằm yên nghe ngóng động tĩnh. Loài chim ăn đêm kêu réo cùng tiếng côn trùng nỉ non xa vắng. Qua khoảng trống trên tầng cây bầu trời đầy sao . Tôi lần tháo chiếc ba lô, cái dù bụng và những đai dù chính. Một ý tưởng ngộ nghĩnh...tôi như một chiến binh mới vừa xâm nhập bằng trực thăng xuống mục tiêu! Công việc trước mắt kéo cái dù xuống cũng may nó không mắc dính trên cây và tìm cách chôn dấu. Gió đưa cái lạnh bất chợt với cơn thèm một điếu thuốc rạo rực. Tôi chặc lưỡi trùm cái dù nhẩy qua đầu tự thưởng cho mình một điếu thuốc...cơn thèm đã cho cảm giác tuyệt vời và quên đời một chốc. Thoải mái xong...bắt đầu đào đất bằng dao găm đi rừng để phi tang cái dù trong tiếng gà gáy dồn dập báo hiệu trời sắp sáng. Rắc lên vài vốc lá khô, tự mãn xoa tay cùng ánh sáng mờ mờ thấy cả làn sương bay bay. Tôi lấy ra chiếc máy...bật mở để tìm Toán trưởng. Đây rồi theo mũi tên chỉ và khoảng cách hiện lên 250 mét. Tôi theo máy di chuyển. Rừng cây chồi non nhưng chằng chịt dây leo cản trở. Bóng của một cây cổ thụ mờ trong sương sớm nhưng chẳng phải là hướng trong máy dò. Những giọt sương trên lá thấm dần trên khăn ngụy trang và hai vai. Khoảng cách trong máy được kéo xuống còn 150 mét. Một vài tiếng súng nổ về hướng Nam cách không mấy xa. Địch đi săn...tiếng bắn không phải là truyền tin hay báo hiệu gì đó, đúng hơn là hạ gục một con thú!  Con trăng  mỏng dính xuất hiện từ lúc nào bên cạnh một ngôi sao sáng long lanh lấp lánh. Đàn chim ăn đêm tham ăn về muộn kêu réo hay nói chuyện với nhau vang vang đáp xuống tàng cây cổ thụ phía sau. Tôi chợt rùng mình trong cảm giác lẻ loi hay bởi cơn gió lạnh đang mơn man trên gương mặt đẫm sương. Tiếng của đàn chim đêm vẫn gơị mở hình ảnh quái dị, ma chơi...thần hồn nát thần vía!  Xua tan những vẩn vơ tôi nhìn vào máy. Con số 80, còn 60 mét nữa...số 20 trong máy là con số ấn định của Trưởng-toán để dừng lại.  Giữ cái "máy mẹ" Toán trưởng biết hết mọi khoảng cách và hướng đến của những "máy con" Ông ta chỉ việc ngồi cố định một chỗ để tiếp nhận dần Toán viên của mình. Khoảng cách 20 mét được ấn định để trao đổi mật khẩu nhằm tránh là quân địch. Nhìn vào máy, tôi qua khỏi bụi lau ngồi chờ đợi... "Juliet" tôi vội đáp ngay mật khẩu "Romeo" Rồi tiếng "vào đi" của Toán trưởng ở phía trước.


 Căn cứ Air America (CIA)


  3- Nét mặt hớn hở và câu nói "vào đi" lần này của Đại-úy Toán trưởng đã kết thúc tốt đẹp, thành công chuyến xâm nhập khi người Toán viên cuối cùng tụ tập. Nắng cũng đã nhấp nhô trên đỉnh núi. Rừng cây thưa toàn chối non quá đầu người. Toán viên nhiệm vụ đi đầu (Point man) đang căn lại địa bàn chuẩn bị. Toán theo đội hình định sẵn bắt đầu di chuyển. Tiếng chim trên cành cây cao líu lo bên hông và đàn vắt đã xuất hiện dưới lá cây mục. Đại úy đi hàng thứ hai, trước tôi ra lệnh dừng lại khi nghe tiếng Covey đang đến. Toán phó người Mỹ đi đoạn hậu đang cầm chiếc gương chiếu lấy ánh sáng sẵn sàng ra hiệu cho máy bay (Covey) cạnh người xạ thủ M79 (Biệt kích quân người Việt) và sau tôi Toán phó người Mỹ phụ trách truyền tin (Radio man) đang liên lạc...Covey ở trên đầu có lẽ đã nhận xong vị trí Toán bằng gương chiếu và Đại úy đang ghi chép tọa độ Toán do Covey thông báo. Khác với xâm nhập bằng trực thăng bãi thả đã được ấn định chính xác cho thuyết trình hành quân. Nhưng với bằng dù sự chêch lệch tọa độ buộc phải có và xác định lại tọa độ là điều cần thiết. Toán tiếp tục di chuyển. Covey cũng đã ra khỏi vùng. Nắng chan hòa và tầng mây trắng phau như càng lúc càng cao! Khu rừng trước mặt xanh mờ sương lam đầy bí ẩn nhưng bên này khu rừng lau trổ cờ trong gió bạc một mầu nghiêng ngả nhảy múa cùng nắng vàng chan chứa! Không gian yên ả trừ lũ chim trên tàn cây cao đứng lẻ loi bên cạnh tảng đá nổi lên như lưng Trâu. Người đi đầu mồ hôi nhỏ giọt rất vất vả vì cây dây leo. Thi thoảng Đại úy cũng phải thay thế dẫn đường. Đàn vắt dưới chân lau nhau ngửi mồi nhưng chẳng làm gì được vì chúng tôi toàn thân kín bưng trừ ra khuôn mặt nhưng đầy thuốc trừ muỗi. Tôi bỗng tiếc cho bộ Dù nhẩy...đúng là đánh giặc theo kiểu nhà giầu cũng khác!
             -Rừng cây cao, tối hun hút. Tôi như đi vào đường hầm gió lùa và lạnh lẽo. Nửa ngày chúng tôi đánh vật với khu rừng chồi chằng chịt những dây leo. Vạt rừng lau bên cạnh dễ đi nhưng không phải là hướng di chuyển vào mục tiêu. Tiếng kêu của thú rừng vòng vọng và đàn khỉ chí chóe trên cành như lạ lẫm nhìn chúng tôi. Bữa ăn quá trưa cũng đã xong. Đại úy căn lại bản đồ để lấy hướng đi. Ngồi bên cạnh, tôi nghe ông nói...còn khoảng năm cây số nữa!  Mục tiêu con đường có đường dây điện thoại mà một Toán thám sát đã báo cáo. Nhiệm vụ chúng tôi tiếp cận con đường tìm đường dây điện thoại để đặt máy thu mọi cuộc điện đàm và bắt tù binh nếu có thể. Trung sĩ truyền tin ngồi sau. Tôi nhìn và phì cười khi anh ta cố mò trong mông, lôi ra con vắt căng đầy máu trên tay. Cái mẹo mà khi còn ở Trung đội Thượng (Hatchet Force) trước khi vào rừng cứ kín đáo xoay lưng rồi ngắt bất cứ chiếc lá nào...nhai trong miệng cho nát rồi vất đi...có thể tránh được lũ vắt tấn công...nhưng theo tôi đã thực hiện nhiều chuyến...có hiệu quả đấy, trừ những con vắt tham, đói ăn điếc không sợ súng. Cách tốt nhất vẫn là áo quần kín bưng, tay và mặt luôn bôi thuốc trừ muỗi. Covey vừa bay ngang rồi biến mất như nhắc Toán...có tao đây! Chúng tôi đang xuống một con dốc thoải nhưng trước mắt là dẫy đồi cao. Thế đất như người ta gấp một tờ giấy. Mặt trời chiếu nghiêng, ánh nắng lung linh trên tàn cây, âm thanh xào xạc lắm khi rít lên cùng gió và gió chỉ đi qua không xuống được chỗ chúng tôi. Một tiếng súng nổ rất gần rồi liên tiếp hai phát như bắn vào Toán. Tôi sững người nhìn quanh...không có ai trúng đạn nhưng tự nhiên ngồi thụp cả xuống. Tiếng hú cất lên và giờ đây tôi đã xác định được vị trí tiếng súng. Có một tiếng hú ở xa hơn đáp lại. Tất cả đều nằm mé tay mặt của hướng di chuyển...cách chúng tôi chỉ khoảng hai, ba mươi mét.  "hú...heo rừng...đến đây, gánh về...hú hú" Toán ngồi yên chờ đợi diễn tiến. Nhìn quanh tôi đã thấy tự động từ lúc nào mỗi người chọn một gốc cây sẵn sàng. Thời gian qua đi, rừng trở lại thanh vắng. Toán di chuyển đang qua cái đồi nhìn xuống khe trải dài hun hút. Tiếng của con chim đất lạnh lùng kêu khắc khoải như muốn dẫn chúng tôi vào sâu...nhưng thật ma quái!  Ánh nắng đã khuất, qua khoảng trống bầu trời có tí ửng hồng trên tầng mây. Địa thế khác lạ với những cụm tre to lớn theo gió vặn mình răng rắc và ngọn ngả ngớn trên cao. Bên những bụi chuối có buồng chín còn một nửa bu đầy ong ruồi chưa biết thế nào là đêm tối. Đường dễ đi nhưng ẩm. Cây vừa đủ để che chắn hành tung. Toán dừng lại dựa lưng vào tảng đá chuẩn bị cho bữa cơm chiều rồi tìm chỗ ngủ đêm.


4-Choàng tỉnh trong mơ màng giấc ngủ. Tự nhiên tôi nhìn đồng hồ...tám giờ tối. Đã có tiếng cụ cựa trở mình của đồng đội. Động cơ xe lớn dần và gấp gáp như thử sức! Nó đang ở hướng Tây đúng hướng mục tiêu của chúng tôi. Tiếng người lao xao cùng tiếng động cơ náo động. Bản giao hưởng đêm rừng thêm mới với tiếng động cơ âm trầm cùng láo nháo tiếng người vang vang và quanh quanh côn trùng nỉ non lan xa hòa điệu. Một công trường khởi động hay đoàn xe thức giấc chuyển mình? Phải đợi thôi!  Mọi người chắc cũng như tôi đều thức dậy và lắng xem hoặc đang ước lượng khoảng cách? Một tiếng thú kêu rống như xé toạc không gian tiếp theo là giọng gầm gừ như đối nhau càng lúc càng to rồi thét vang...bỗng chốc mất hút trong đêm. Tiếng của đoàn xe đi xa để lại lao xao tiếng người như dần xa vắng. Nghĩ trong bụng, đoán chỉ là trạm vận chuyển. Đêm cháy dần như ngọn nến, tôi cố nhớ đến bầu trời xanh ngắt và sâu thẳm mênh mông...mênh mông...để dỗ dành lại giấc ngủ.
          -Có một thứ gì đang đi tới...tiếng động cây lá và bước chân nhịp nhàng quanh tiếng gà gáy vang. Trời đã sáng nhưng chưa rõ hẳn trong làn sương mù giăng găng, giơ tay lên mặt là chạm phải nhất là ở hàng mi. Mẩu C4 đang nấu nước cháy hết tạm ngừng. Một con chim lợn xà xuống thấp kêu thét một tiếng nghe rờn rợn. Nhìn những gương mặt căng thẳng tay lăm lăm trên cò súng trong thế ngồi dã chiến. Tôi bỗng phân định ra cái sự gì đó đang đến quyết không phải là địch quân!  Nhưng toàn thân cũng nóng lên theo từng bước chân căng thẳng. Thời gian như doãi ra rồi ngừng lại cùng một sự yên lặng chợt đến thật khó hiểu...Tiếng khịt khịt vang lên nhanh chóng đánh tan bầu khí căng thẳng cùng mọi cái thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ bụi cây một con heo đen xì cái đầu đưa qua đưa về ngẩng lên nhìn chúng tôi. Nó đứng đó như khách xa lạ một lúc nhìn ngổ ngáo rồi tẽ ngang đi mất.  Mẹ kiếp...sáng sớm đã dợt hộp!  Cơn gió nhẹ bay cùng làn sương nổi hột làm cơn thèm cà phê chợt đến. Ngọn lửa C4 đang làm sôi ca nước...việc cấn thiết cho cái bao tử trong một ngày...đổ nước nóng vào hai bịch gạo sấy  và nhâm nhi cà phê cùng thưởng thức điếu thuốc lá...thổi khói vào chiếc áo đi mưa để sát đất. Rừng yên lặng chỉ còn tiếng chim. Sương mù tự nhiên kéo đi đâu thật lẹ, chỉ còn những mảng mỏng luẩn quẩn bên vạt cây lá từng giọt đếm trên đất. Hai người Biệt kích Việt vừa gỡ xong mìn phòng thủ. Toán di chuyển.
           -Con đường chắn ngang. Tôi được lệnh theo Đại-úy lên thám sát. Đường nhỏ hẹp có dấu bánh xe đạp đi lõm hai bên nhưng bên này sâu hơn. Chứng tỏ địch vận chuyển thồ hàng từ hướng Đông sang Tây rồi lại dắt xe đi bộ trở về. Tôi được lệnh vượt qua đường sau khi đã lấy ít lá cây rụng lấp bên trên tạo thành một lối đi tránh để lại dấu vết. Toán phó, người cuối cùng vừa sang đang ngồi xóa dấu và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Tiếng Covey ì ì đang lên vùng. Một mảng trời trong xanh bên cạnh khoảng mây trắng đùn từ dưới lên cao. Mặt trời đứng khựng trên tàn cây như cố xuyên thủng lớp sương mù đang muốn thoát khỏi sức hút của đất và cây rừng. Toán dừng lại bên một gốc cổ thụ có những dây leo to như cổ đùi rũ xuống. Đàn khỉ thấy người đang dáo dác trên cành và to nhỏ gì đó. Người Mỹ truyền tin liên lạc Covey...đọc mật mã chuyển bức điện. Sự cô đơn của rừng đầy kỳ bí và lạnh lùng! Toán tiếp tục di chuyển để lại đàn vắt như tiếc rẻ con mồi...lồm ngồm dưới lớp lá rụng dầy. Một mùi hương hoa thoang thoảng, tôi bất chợt nhìn lên tàn cây. Mầu hoa tím nhạt đua lay trong gió dịu hiền bên lá xanh phơn phớt...hoa gấp bội lần lá! Đại úy mới vừa trượt chân, tôi phải ghìm người lại, đơn giản là chúng tôi đang xuống con dốc. Nắng ở trên cao nhưng không thể xuyên rừng xuống được đất. Buổi sáng đi qua thật lẹ...tôi đã cảm thấy đói bụng. Những bước chân khám phá cũng đã mỏi...dù sao cũng cần phải tiếp thêm năng lượng. Đại úy quay lại nhìn tôi rồi nhìn đồng hồ tay chỉ vào bụng, ý muốn hỏi có mệt, đói không? Tôi cười đưa tay ra hiệu...Ông và tôi sức vóc không bằng nhau! Nhưng dù sao tôi biết chắc rằng cũng phải qua khỏi con dốc trước mặt...chỗ nghỉ quân phải có địa thế tác chiến tốt. Luồng gió từ khe sâu giống như hơi thở của rừng luôn lạnh lẽo, âm u và huyền bí! Một tiếng súng nổ ở hướng Tây...địch đang báo hiệu gì đó hay là một mệnh lệnh trong khu vực? Nó đã quá quen với những cuộc hành quân Biệt-kích nhất là khi địch biết chắc có Biệt-kích trong vùng, lúc đó tiếng súng bắn để nghi binh hay tạo một cái bẫy dụ chờ Toán vào vùng phục kích do họ chọn lựa. Tiếng của một con chim lạ kêu trong sâu nghe âm vang thật rền rĩ, cô đơn.
5- Bữa cơm chiều, ăn xong là di chuyển ngay. Trời nhá nhem , sự yên tĩnh đến đáng sợ của rừng luôn làm căng thẳng thần kinh! Buổi chiều qua đi với hai lần vượt qua loại đường gùi xuyên rừng và con suối cạn róc rách từ kẽ đá...nó chỉ đổ nước ra suối lớn vào mùa mưa. Bóng tối đến thật nhanh cùng đàn muỗi thét vang bên tai, tức tối vì mùi thuốc bôi trừ muỗi. Bóng đêm đã ngự trị nhưng Toán vẫn lần mò chưa tìm được một gốc cây ưng ý hay một địa thế có những tảng đá để ẩn mình. Tiếng của loài chim ăn đêm như thúc dục đến não lòng, kinh dị. Cơn gió lạnh chợt đến như xé lòng, buốt giá bủa vây. Toán dừng lại khi bước chân tôi đứng trẹo đi vì hai cục đá cao thấp. Gốc cây lớn ngay trước mặt đã được chọn và chỉ trong tích tắc mọi người đã yên vị cùng lúc người Toán phó và người dẫn đường (point man) gài xong hai trái mìn phòng thủ...ở ngay đường vừa di chuyển...cùng hướng vào mục tiêu.  Tôi ấm dần lên trong cái áo đi mưa, dựa người thoải mái vào ba lô và dây đạn khoác hờ vào hai vai rồi cởi khóa dây đạn trước bụng...Khi cần thiết...nhổm người dậy là mọi thứ đã sẵn nơi vai, chỉ việc gài chốt dây đạn là xong. Hướng thoát hiểm được ấn định luôn là phía trước...đường vào mục tiêu. Trong trường hợp đụng địch tại nơi ngủ đêm, sẽ có tiếng hô ra lệnh của Toán trưởng và hướng trái mìn Claymore của người đi đầu nổ tung...Đó là con đường máu thoát hiểm...Tôi đi dần vào giấc ngủ...lơ mơ trong điệp khúc đêm rừng gió rét.
             - Vừa mở mắt thức giấc. Tôi liền tạ ơn Chúa ban sự bình an trong đêm. Sương trên cành nhỏ giọt từng giọt xuống chiếc áo mưa. Nó lộp bộp nhiều hơn khi làn gió thổi trên cao. Sương mù giăng khắp và gà gáy dồn dập. Núi rừng vẫn một mực yên lặng và hình như tiếng chim trong gió khe khẽ lẩn khuất bên trên cùng tiếng côn trùng rời rạc, mệt mỏi với chức năng về đêm?!  Trời sáng dần, ngọn gió làm sương mù bay, tôi như ngủ trong cỗ màn tuyn trắng đục khi còn ở nhà chưa đi lính. Đại úy đang nấu nước sôi chuẩn bị cho cái bụng trong ngày. Mùi thuốc nổ C4 dùng nấu nước có mùi thơm thơm khi đốt lửa nhưng nó lại tạo khói khét lẹt lúc được kích hoạt nổ. Toán được phép mang theo những bánh thuốc nổ C4 dùng vào việc nấu nướng và khi hữu sự chúng tôi có thể gộp những bánh thuốc nổ C4 xài dở dang, tạo thành bánh lớn bởi độ dẻo của nó và gắn ngòi nổ đốn ngã bất cứ cây cao nào cản trở cho bãi đáp khi bất ngờ triệt xuất Toán. Điều quan trọng là phải tạo một lỗ sâu bằng cách ấn mạnh cây viết chì mà Toán trưởng vẫn dùng để ghi chép vào bánh thuốc C4 để cho ngòi nổ ở trung tâm, bảo đảm cho hiệu quả. Công việc của buổi sáng cứ tuần tự...sau màn vệ sinh cá nhân...Toán bắt đầu di chuyển.

            - Nắng trên cao và gió mang cái mùi ngai ngái của loại cây mọc trong khu vực. Có lá như lá me, chiều cao chỉ bốn mét, tàn xòe rộng, quả rũ xuống như giàn đậu đũa. Mọc sát cạnh nhau an phận dưới những tàn cây cổ thụ cao lớn che trời. Một chùm lan rừng tím xậm vụt lên từ cành lá, đùa giỡn cùng nắng ban mai. Có một con ong vừa vụt bay, nhanh chóng mất tích. Tiếng chim líu lo và đàn khỉ the thé đùa giỡn chuyền cành! Bên gốc cây Đại úy liên lạc với Covey...Ông mới chuyển xong bức điện và có vẻ như đang chờ sự gì đó? Toán lại lên đường sau tiếng Covey nhỏ dần đi bao vùng khác. Di chuyển dần lên cao, địa thế dốc trì nặng đôi chân. Bầu không khí thay đổi hẳn, mát rượi và thơm lừng hương hoa. Trên cao cả một vạt rừng hoa tím...mầu tím hồng nhạt từ cây rắc những bông hoa trên đất, theo cơn gió nhẹ bay bay cả vào người chúng tôi như mừng người chiến thắng! Ai có tâm hồn mà chẳng rạo rực trước cảnh này? Người dẫn đường đã lên tới đỉnh dốc. Mảnh trời xanh lấp ló bên trên tầng cây và bên dưới chen cùng những gốc cây tảng đá đen xì rải rác lồm ngồm như đàn rùa biển lên bờ. Đại úy ra lệnh nghỉ và ăn trưa. Gió từ dưới lũng thốc lên vút tận tầng cây rào rào lao xao. Toán phó đang hút thuốc lá, thở khói thuốc vào ngực áo mình, cạnh người xạ thủ M79 nhai cơm. Đại úy bận bịu với tấm bản đồ và cái địa bàn...căn, đo xác định lại phương hướng. Mùi ruốc thịt ba lát đậm đà sao nước mắm ngon nhai với cơm sấy trong miệng làm tôi nhớ về ký ức khi xưa còn bé...Cứ mỗi lần Mẹ làm ruốc thịt heo y như rằng tôi căn để ăn vụng, nhai không biết chán...Miếng ăn vụng tôi nghiệm ra rằng ở những nơi kín đáo ăn miếng càng nhỏ nhai càng khoái, càng khích thích tợn!  Tiếng Covey vừa bay ngang loãng dần về hướng Đông có lẽ nó lên đường về lại nơi xuất phát đổi tua cho chiếc khác bao vùng. Tôi cố gắng chống lại giấc ngủ trưa quen thuộc và thấy đời như là sự gì bất công tràn lan!   
                                          
  6- Tiếng cười đùa vang vọng xé tan sự yên lặng kỳ bí của rừng. Gió mạnh từ lũng liên tục thổi lên rồi luẩn quẩn làm đôi lúc giọng trong trẻo nhỏ nhẹ, đôi khi khanh khách vụt cao. Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tôi đã thấy cái nhíu mày trên trán Đại úy. Tôi biết ông đang quyết định một việc gí đó? Vì nếu di chuyển ngay theo hướng vào mục tiêu, Toán sẽ bỏ lại sau lưng tiếng cười đùa của địch bên hông...chẳng phiền toái gì cả!  Y như tôi linh cảm. Đại úy đến bên Toán phó và họ thảo luận gì đó? Giờ thì cũng như mọi người tôi có thể ước lượng khoảng cách đến địch chỉ vài chục mét. Trở về Đại úy ra lệnh thám sát khu vực và tôi thông báo cho hai Toán viên biết. Người đi đầu đã đứng lên. Toán cứ theo hướng có tiếng người đi tới. Cây rừng tương đối dễ di chuyển. Sự che chắn tốt và chúng tôi cẩn trọng lần bước. Con Sóc đuôi dài leo vụt lên cây đến nửa chừng dừng lại nhìn chúng tôi. Tiếng người mỗi lúc một gần rồi đột nhiên tắt hẳn? Ánh nắng ngang tầm mắt nhưng lúc này bị tàn cây che chắn. Tiếng ì ì của Covey ở một nơi xa hướng Nam cho chúng tôi thêm tin tưởng. Toán dừng lại Đại úy ngoắc tay gọi tôi và cùng lên phía trước. Một con suối trước mặt cùng mắt tôi chạm ngay vào dẫy nhà sàn nằm nép bên suối ở sườn dốc. Một khoảng ánh nắng chiếu rọi tấy rõ con nước lao đi trong đá chắc chắn là không sâu. Nhìn gần, dưới dốc những trái su su ngồn ngộn trên dây leo cùng những luống khoai môn  bên hàng ớt đỏ rực. Toán cảnh yên lặng như ma quái, đến nước dưới suối cũng câm lặng!? Tiếng của một con chim đất rúc lên nghe như kêu mời và một, hai, ba, bốn rồi năm người từ nhà sàn vừa đi ra. Nhìn kỹ ba dân quân và hai bộ đội. Không trang bị súng nhưng người bộ đội đi thứ hai quấn băng xanh mầu lợt trên đầu. Có tiếng gọi từ phía bên kia con suối nhưng chẳng hiểu nói gì? chỉ thấy cả năm người sắn quần lội qua. Nắng chiều tỏa ánh sáng chiếu chói lọi xuyên cành lá và chúng tôi phát hiện thêm những làn khói tỏa không muốn rời mái nhà. Một tên bộ đội bất chợt từ trong ra ngoài sân, cây súng chỉ thiên nổ một phát rồi lại tất tưởi trở vào. Tất cả mọi sự việc hẳn không qua được cái ống nhòm của Đại úy. Ông có vẻ say mê, rồi thình lình ra lệnh rút quân, di chuyển theo hướng vào mục tiêu. Ánh sáng ửng chiếu khắp trên vùng trời đằng Tây cứ như vầng than hồng lóe trong đêm. Người đi đầu phải luồn lách để tránh những cây dây leo trong một địa thế xuống dốc luôn phải hãm đôi chân. Trên một cành cây thấp ngước nhìn loài chim xâu bé tí thoăn thoắt nhẩy tìm mồi như chả biết thế nào đã gần đêm. Đại úy ra lệnh ngừng lại, chả gì cũng đã quá bữa cơm chiều. Đàn muỗi tự nhiên xô lại vây quanh cùng tiếng kêu của một loài chim lạ nghe đơn côi và khắc khoải. Cơm ăn vừa xong cũng là lúc bóng đêm vừa đến. Điếu thuốc lá cuối cùng trong ngày được phép, tất cả được thở sâu vào ngực áo. Lệnh qui định, nơi ngủ đêm cấm hút thuốc lá cho đến sáng ngày hôm sau. Toán di chuyển tìm chỗ ngủ đêm và hình như có tiếng ầm ì nơi xa vọng lại. Chân bước nhưng tai dóng lên để nghe...quả đúng vậy! Nó xen lẫn với điệp khúc đêm rừng quanh quanh và rõ nhất đanh nhất có một loài giống như tiếng Ve kêu mùa không biết mỏi với mầu Phượng rực nắng nhưng ở đây "tiếng Ve...?" trong đêm. Động cơ xe, giờ tôi có thể nói như vậy và xác định được càng lúc càng đến gần. Cơn gió làm lao xao cây lá. Những bước chân giữa đêm rừng đầy kinh dị, sợ hãi vây quanh...chân tuy bước mà lòng cứ mãi về phía sau chỉ sợ bị "vồ..." Dù rằng tôi biết chắc còn ba đồng đội đang đi theo. Một mùi hương hoa thoảng trong đêm nhưng không gây được sự thích thú kèm theo cái lành lạnh. Đại úy đi trước tôi đang ho vào vạt áo, có lẽ ông bị dị ứng "làn gió lạ" Một bóng đen to lớn án phía trước che dần bầu trời sao. Chúng tôi như bước vào con đường hầm gió lạnh và tối om. Gió ào mạnh bên trên rồi dịu đi chạm lá tựa tiếng réo rắt phong cầm lúc trầm lúc bổng. Tôi vướng vào một dây leo và chân chạm rễ cây suýt ngã. Đại úy ra lệnh nghỉ đêm và tiếng động cơ xe bỗng đứt quãng vuột biến. Tôi nghe Đại úy nói với Toán phó chỉ gài một trái mìn Claymore.                     đường thoát hiểm vẫn là hướng vào mục tiêu. Gốc cây cổ thụ và những rễ bạnh nổi lên như ôm lấy chúng tôi. Tiếng kêu của con tắc kè tận trên cao chậm rãi từng tiếng chắc nịch giống như nắm đấm dội vào lồng ngực gây tưng tức hay có thể tầng cây dầy che lấp không gian thoáng đãng và sương mù tuy chẳng thấy nhưng cũng hình dung qua cái lạnh mơn man trên mặt, phơn phớt ẩm hơi.

 
  7- Buổi sáng thức dậy, công việc tuần tự  cứ như mọi ngày hành quân. Covey lấy xong bức điện rồi di ngay. Sương mù cũng tan biến để lại giọt mưa trên lá. Người đi đầu bỗng dừng lại, tay ra hiệu con đường phía trước. Ánh nắng chói lọi lọt qua tầng cây làm hai vai người đi đầu tỏa khói và tôi thấy Đại úy đang quan sát con đường. Theo lệ thường tôi lên để yểm trợ...vẫn là loại đường gùi để vận chuyển, nhìn những dấu chân in trên đường, chứng tỏ địch di chuyển thường xuyên nhưng hẳn nhiên chưa phải là con đường có đường dây điện thoại mà nhiệm vụ Toán phải tìm. Sáng nay khi chấm bản đồ Đại úy nói rằng chỉ còn khoảng hơn một cây số sẽ chạm mục tiêu. Chúng tôi băng qua đường sau khi Đại úy chụp vài pô ảnh. Địa thế khu rừng chồi rất ít cây to nhưng Toán đang đi vào bóng mát cùng tiếng chim lanh chanh trên cành cao. Một mảng mây trắng bấu chặt lấy bìa rừng trước mặt cùng ngọn gió làm lạnh hai vai và chắc chắn sẽ khô dần đi cái khăn ngụy trang. Tạm nghỉ chốc lát rồi lại lên đường. Hai con chim thật lớn tự đâu bay đến một con đứng quạt cánh trên tàn cây nhưng không đậu xuống còn một con bay vòng trên cất tiếng kêu la như vai trò của một huấn luyện viên!  Đại úy nhắc tôi "đi đi..." cũng vừa lúc súng nổ ở phía sau rất gần và tiếng đáp trả phía bên hông nghe đanh, nhọn như không cùng một loại súng. Khu vực bỗng trở nên đáng sợ. Tôi cảm thấy nhiều mũi tên đang bắn tới và cái lạnh chợt đến đang tỏa từ sống lưng đến gần mông. Đại úy ra lệnh dừng lại. Phía trước khe dốc lên cao trông như bức tranh với đụn mây trắng tinh khôi cuồn cuộn cùng bầu trời xanh thẳm. Tiếng hú từ xa vang vọng mà chỉ có thể là tiếng người cùng tạo cho rừng một thoáng kỳ quái, thâm trầm đến lạnh lùng. Giọng hú đáp trả hai lần nghe vọng dội âm thanh như đi từ Nam lên Bắc...Tôi tưởng tượng đến có một trận đồ đang vây hãm...giữa thanh thiên bạch nhật!  Chúng tôi đến gần sự hoạt động nơi địch đóng quân. Đại úy chỉ hướng cho người đi đầu và ra lệnh xuất phát. Nắng đã gần trên đỉnh đầu và làm khô mọi thứ ướt bởi sương sớm. Toán đang đi vào bìa rừng với cây cao bóng rợp. Vẻ âm u vắng lặng chào đón...nhìn, ai mà chẳng chột dạ?! Tôi theo thói quen xoay người ngắt một lá cây tiện nơi tay bỏ vào miệng nhai để chống vắt. Nụ cười của người Toán phó (radio man) đi sau nhìn tôi tinh quái và thoáng ngạc nhiên, dù rằng việc này tôi cũng đã giải thích lúc cùng thực tập. Rừng cây tương đối dễ di chuyển vừa đủ để che chắn. Những tảng đá chen nhau như đua cùng cây nhưng an phận bởi loài cây mọc từ trong đá xanh biếc nhưng thấp xỉn phát triển theo sức sống ở những đường kẽ và trũng cùng  loại rêu xanh đậm bấu chặt. Chúng tôi ăn trưa ở gốc cây có những tảng đá rải rác vừa đủ để che đầu người ngồi. Ánh nắng chiếu rọi, giống những hạt kim cương thi thoảng hiện trên những khuôn mặt và điệp khúc rừng cứ mãi trôi theo thời gian bất tận! Tiếng ào ạt phía bên hông làm những cây chồi non nghiêng hẳn một vạt trước ngọn gió quẩn quanh quanh...rồi chạy đuổi về phía sau. Đại úy ăn xong ông lại căn hướng đi...Ông ta có vẻ sốt ruột, nóng lòng vì nhiệm vụ hoặc bởi những ước lượng đường di chuyển bị sai trật. Nhưng tôi nghĩ là không thể!  Lệnh di chuyển ngay đúng ra là phải có chừng một tiếng nghỉ ngơi. Nhưng cả Toán không ai tỏ vẻ uể oải ngược lại hăng hái tiến bước. Tôi cười nhìn lại đàn vắt cố công bò đến ngổn ngang...chúng cứ ngóc lên cao đưa cái vòi qua lại dò con mồi...tôi ngộ nghĩnh vẫy tay chào...chào lũ mày, Vắt.  Ánh sáng vẫn rọi trên khuôn mặt Đại úy vụt biến mất...nhìn lên hai con chim rất to vừa đậu vào tàng cây cất tiếng kêu như gọi con trong tổ? Ngọn gió quẩn hình như quay lại đẩy chúng tôi vào sâu.
            -Người đi đầu dừng lại ra hiệu có con đường. Đại úy nhìn tôi như ra lệnh cùng lên thám sát. Phía sau Toán đã ở vào vị trí chiến đấu dàn hàng yểm trợ hai bên và mặt sau. Ngồi xuống mép đường bụi rậm quan sát. Đường cơ giới, dấu bánh xe và vết chân dấu giầy trên đường...nhưng không thấy dây điện thoại. Đại úy nét mặt đang suy tính, con đường này rất đúng  trong báo cáo. Tôi cũng biết như vậy và nghĩ là dây điện thoại chỉ có ở bên kia đường? Đại úy khoắt tay ra hiệu vượt qua...Vẫn là người phải sang trước để lập chốt yểm trợ...Men theo những đốm lá cây rụng tôi nhanh chóng vượt qua sáu... bẩy mét con đường thật êm ái và chân vướng ngay vào sợi dây điện thoại. Lập xong đầu cầu, quan sát hai mé đường tôi ra hiệu cho Toán di chuyển. Vẫn con gió quẩn lúc này thổi ào trên đường bốc lên những chiếc lá bay bay.
  8- Đại úy cũng vừa sang đường, tôi chỉ cho ông dây điện thoại. Nét vui mừng rõ trên mặt, ông buông một câu "tuyệt vời" và ngay lập tức ra lệnh di chuyển dọc theo con đường để chọn địa thế. Toán đã đến được một nơi cay chồi mọc cùng dây leo chằng chịt bên dưới, có những tảng đá rải rác...Một địa thế tác chiến tốt và quan sát cũng như ẩn nấp chả chê vào đâu được. Nắng đã siên ngang...chiều đi thật mau...cũng nhanh như chúng tôi vào vị trí. Đại úy và radio man nằm ở trung tâm để ghi âm. Tôi và người đi đầu (point man) hai đầu tả hữu còn Toán phó và người xạ thủ M79 án ngữ mé sau lưng. Hai trái mìn phòng thủ được gài hai đầu do tôi và Point man giữ. Lệnh cho hướng đào thoát là chốt phía sau của Toán phó. Con đường vẫn im lìm vắng lặng. Mé tay trái gió vừa bốc lên những chiếc lá trên đường tung cao rồi xoay tròn chạy ra xa. Dựa lưng vào tảng đá, tôi trong một bụi rậm bắt đầu tạo những khoảng trống nhỏ để tiện quan sát trên đường nhất là lỗ hổng để nhìn được vị trí đặt mìn phòng thủ. Đại úy đến bên tôi từ phía sau như là để kiểm soát và thông báo máy ghi âm của người Toán phó radio man đã hoạt động. Mặt trời đã lặn và bắt đầu cho đêm rừng. Miếng cơm nhai trong miệng bữa nay sao ngon lạ! Trời mây trắng nhưng phía Bắc cơn đen che hẳn nửa bầu trời. Con đường đi xuống lũng sâu quẹo hẳn vào núi cao. Bìa rừng cây cao rậm che chắn cho con đường lại là ranh giới giữa rừng già và rừng chồi non. Bóng tối đem bản giao hưởng rừng đêm cùng sương mù chen lấn. Gió bắt đầu lạnh thêm thổi từ trong sâu. Trong chiếc áo đi mưa tôi chợt rùng mình về sự lẻ loi, cô đơn...dù rằng chắc chắn cách đây chỉ khoảng mười mét là đồng đội! Tiếng của loài chim ăn đêm nghe não lòng gợi nét quỉ ma, chông chênh giữa thực và mộng...Bất chợt nghe từ thẳm sâu ký ức một khoảng trời học đường...ngày ấy những bài học làm người, bài học cuộc đời trước khi bước ra một sân chơi lớn: đời người. Mầu hoa Phượng đỏ như lửa ấy cứ rực mỗi Hè. Tàn mùa Phượng đã nghe mùa Thu gõ tiếng trống trường...lăn dọc thời trẻ con hoang dại. Lăn dọc những vui buồn không tuổi, không tên. Để bước vào những mùa thi...Lần cuối, năm ấy mình không qua nổi kỳ thi, sẽ là ngã rẽ cuộc đời! Trò chơi lớn bắt đầu...Xua đi những ý nghĩ, tôi tập trung vào giấc ngủ. Đưa mình lên bầu trời xanh thăm thẳm, cứ thế xa tít rồi xa tít và tôi ở trong vùng cao xa ấy.
          -Đêm qua đi, trời lại sáng và tôi thức giấc lúc còn tối có lẽ  cái chân bị tê vì thế ngủ ngồi quái ác. Tiếng côn trùng nghe đã có phần rời rạc chỉ lũ gà là xung. Biết bao chuyến hành quân và ở bất cứ rừng núi nào tôi chỉ nghe tiếng gà chứ chưa bao giờ thấy chúng! Sự ẩn mặt của lũ gà rừng tôi chưa thể lý giải được? Ánh mờ mờ của sáng sớm làm tôi nhận rõ hơn phía trước mặt thung lũng chạy xa trong biển xanh ngàn cây. Xa hơn núi cao chắn lối và bên này con đường đang đi xuống sâu vào rừng. Cơn thèm cà phê ghê gớm làm tôi phải nấu nước thôi. Mùi chất nổ C4 bị đốt tự nhiên sộc vào mũi...không biết có phải của tôi...ô hay chắc chắn rồi! Hay thêm quanh đây đồng đội cũng đang nấu và tôi liền nghe tiếng "tắc kè" mật hiệu qui định...tiếng một rời rạc là liên lạc với nhau còn nhanh gấp gáp là báo động...Tôi liến đáp lại, Đại úy xuất hiện. Nhìn quanh ông yên tâm, xong lại biến. Đổi lại thế ngồi và thưởng thức ca cà phê cùng khói thuốc ém chặt say say. Gió nhẹ bay bay sương sớm thấy cả hột li ti rồi  nhẹ nhàng rơi. Trời đã sáng, mây trên cao xa...cao hơn một ánh sao to lấp lánh chưa chịu nhường mặt trời mà tôi đoán cũng sắp lên khỏi núi hướng Đông. Tiếng chim trên cành cây cao càng rõ hơn náo động dần không khí...Ngày của rừng thật sự bắt đầu và tôi nghe tiếng súng nổ ở về hướng Tây.
           -Một mình lẻ loi, ngồi buồn chết đi được. Hai viên kẹo "cao su" trong khẩu phần ăn nhai lọt thỏm vẻ còn thèm thuồng không đã.Nghe bên vị trí của Đại úy vẫn một mực im lìm nhưng chắc chắn ít ra họ đã thu âm được hai cuốn băng. Ánh mặt trời chói lọi xuyên cành lá tức khắc đang đẩy lùi lớp sương mai mà giờ hình như đã tan biến. Có thể nó chạy trốn trước khi mặt trời đến! Tôi bỗng nhìn về hướng dốc con đường và mắt vừa chạm hai người đang dắt xe đạp đi lên. Tôi...miệng trong loa tay kêu "tắc kè" liên tục rồi nghe tiếng "tắc kè" đáp lại. Mật hiệu đã được nhận và chờ đợi cho sự sẵn sàng.


            9-Hai tên địch dần đi lên, chỉ một tên có mang súng, cây AK đeo trước ngực. Cả hai trang phục chính qui chính hiệu...nón cối, giầy vải, áo quần kaki xanh, lưng thắt dây da nâu loại Trung quốc. Tên đi sau mang cặp da bên hông ,không súng.  Vì đường lên dốc nên cả hai dắt xe đạp, loại Trung quốc, mầu đen, hai thắng tay liền với ghi đông lái. Tôi dõi theo từ bước đi họ lên, giờ thì có thể nhìn rõ mặt...tên mang súng còn rất trẻ có thể nói là con nít! Còn tên kia, mặt dầy dặn, khoảng ngoài ba mươi. Đếm từng bước chân có lúc chậm vì lên dốc vả lại còn phải dắt xe. Tôi cố chấn tĩnh...doãi tay gồng mạnh như để lấy lại sức và cái của chết người càng lúc càng gần cùng thời gian nóng lên và như ngừng trôi nhưng nhích dần. Một giọng hót mượt mà, thanh cảnh của một con chim trên cây giúp tôi phần nào thoát cơn căng thẳng đang lên và hai tên địch bất ngờ rẽ vào lề đường bên kia có tảng đá cao rồi dựng xe. Động tác rất nhanh hắn tháo cây súng khỏi cổ dự vào xe đạp rối tất tưởi đi đến bụi rậm gần đó...biến mất. Tên mang cặp vào sâu một tí thản nhiên thò tay móc "..." đứng đái nét mặt vẻ thoải mái, tay đu đưa rồi chợt rùng mình nghiêng hẳn người quay đi ra. Hình như có gió to nổi lên phía giữa con dốc, lá cây bay tung về bên kia đường và bóng rợp đen của đám mây dần dần từ sau lưng hướng Nam trôi từ từ lên hướng Bắc. Tên bộ đội con nít cũng vừa đi ra. Rất tự nhiên như đã quen thói lấy cái túi vải sau xe đạp, ngồi xòa xuống cục đá thấp tay kia móc ra hai nắm cơm, đưa cho tên kia một...thản nhiên cắn ăn một cách lạnh lùng! Trò chơi ú tim lại theo từng miếng nhai, thoáng chốc đã hết nửa nắm cơm. Khoảng cách vào quãng mười mét nhưng tôi thấy rõ còn hơn khi đi xem kịch diễn trên sân khấu. Sự hồi hộp căng thẳng cứ dần được đẩy lên có thể đã chạm vào được ánh nắng. Tôi bỗng nhiên tự trách sao lại chọn đầu dốc, nhưng đó là việc của Đại úy...về mặt chiến thuật rất có lợi cho tác chiến, nhưng tâm lý đã lên dốc là phải nghỉ ngơi?!  Giờ đây chắc mọi người cũng có ý nghĩ như tôi trước tình thế này. Vừa ăn xong tên con nít vơ lấy cây súng, tưởng đeo vào người nhưng không hắn chĩa lên trời nổ một phát xong nói " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."  Họ dắt xe ra đường tự dưng mắt tên bộ đội mang cặp da cứ nhìn chăm chăm vào bụi cây tôi ẩn nấp và một vẻ trù trừ gì đó hiện trên gương mặt hắn...khuôn mặt vừa đi qua vùng ánh sáng chiếu trực diện chói sáng từ tàn cây. Tôi thấy nhột nơi sống lưng và tâm trí tập trung ngay vào cò súng. Vẻ lanh chanh, tên con nít lên yên xe trước, gồng chân, cong người đạp lấy đà...còn tên đeo cặp, thênh thếch trên bi đan xe, một chân đẩy dăm bước, lên xe theo kiểu Pháp. Qua chỗ tôi, mắt hắn không hiểu sao cứ mãi chằm chặp nhìn như say mê? Đàn chim trên cao bỗng kêu réo loạn xạ. Nhìn lên có vài con bay tuá ra và hai con đuổi đánh nhau bay xà xuống đúng vào lúc bóng hai tên bộ đội mất hút bỏ lại sau ánh tia chớp phản chiếu phát ra từ hai chiếc xe đạp.  Không gian trở lại yên ả, tĩnh mịch. Chim trên cành cũng im tiếng sau màn báo động. Tai tôi nghe tiếng Covey ở một nơi xa vọng lại. Làn gió hơi lạnh mơn man trên da mặt và tôi nghe ám hiệu "tắc kè..." chậm rãi. Vội đáp lại và Đại úy xuất hiện đang ngồi xổm đi vào bụi rậm với câu hỏi đầu tiên "ổn chứ..." Dáng điệu nóng lòng ông hỏi tôi có nghe hai tên địch nói gì với nhau. Tôi dịch lại và xác định họ chỉ nói với nhau có một câu " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."  Nghe xong nét mặt của ông trở nên đăm chiêu suy nghĩ nhíu mày. Hai cặp mắt nâu nâu như chớp sáng. Tôi hiểu ngay ra rằng vai trò của người Thông dịch trong lúc này thật cần thiết!  Đại úy dặn dò một vài việc chiến thuật rồi theo thói quen lấy ra thanh kẹo "cao su" vừa nhai vừa đi khỏi. Một con sóc chạy trên đường, đến chỗ có ánh nắng dừng lại dương mắt nhìn quanh như muốn sưởi ấm. Lại một tiếng súng địch nổ ở hướng Tây chẳng bao xa. Hai bịch gạo sấy giờ thì no đủ...đã thành cơm. Tôi bắt đầu nhai phần cơm buổi sáng và nghĩ đến nhiệm vụ của Toán...Bắt tù binh. Trong thực tập, Toán phó là chuyên gia bắt tù binh. Ông ta có quyền quyết định ra tay hay không trong giây phút chót. Theo lệ thường địch quân vẫn cử người đi kiểm soát đường dây điện thoại và nhiệm vụ thu âm vẫn đi đôi với bắt tù binh. Khi được mật hiệu Toán phó chỉ việc dời chỗ ẩn nấp từ phía sau đi lên phía trái hay phải tùy theo hướng địch, phối hợp với Toán viên đã có sẵn để hành động. Nhưng việc quan trong vẫn là địa thế...có bãi đáp hay không? Thực tại Toán chúng tôi từ ngày qua đã phải luôn tránh những khoảng trống... còn mọi việc khác dĩ nhiên nằm trong kế hoạch...đều phải sẵn sàng tại căn cứ xuất phát.


 10- Nắng chếch ngang mặt. Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Buổi sáng qua đi thật mau với vài lần phải trở mình để thoải mái cho thế ngồi, tránh tê chân. Không gian tĩnh lặng nhưng thi thoảng tiếng con chim đất kêu lên như thương nhớ!  "tắc kè..." tôi vội đáp lại mật hiệu rồi tức thời Đại úy xuất hiện. Vẫn câu hỏi đầu môi "ổn chứ..." Rồi ông ra lệnh bắt tù binh sau khi hỏi tôi " Anh có nghĩ rằng hai tên địch lúc sáng sẽ trở về vào lúc trưa..." Tôi không chút ngần ngừ đáp lại "chắc chắn rồi...tự miệng họ nói ra mà." Ông đưa cho tôi thanh kẹo rồi rút lui. Tình huống hiện tại người Toán phó phải đến chỗ của Toán viên đi đầu để xem xét địa thế và đón lõng hai tên địch. Phần tôi chỉ lo căn coi phía đường trách nhiệm và sau cùng là tháo trái mìn phòng thủ. Mọi việc chắc đã lên kế hoạch và sự bàn định giữa Đại úy và Toán phó hiển nhiên cũng đã xong trước khi đến tôi. Có giọng hú ở về cuối dốc và tiếng đáp lại hơi xa. Tôi căng mắt chờ đợi nhưng vắng lặng tút đến phần đường chìm vào rừng cây. Ánh nắng như phân chia con đường thành từng khúc có nơi loang lỗ chói chan, chỗ tối hù nhưng dài hơn, thấy cả cái lạnh lẽo âm u. Thời gian nhích dần và dĩ nhiên người trong cuộc cũng chuẩn bị mang tâm trạng căng thẳng. Tôi nhìn lại đồng hồ...nó nhích mãi mà chưa qua con số mười một!  Vùng lên, chửi đổng một tiếng  trong bụng "đồ con rùa..." Tôi bò ra dịch dần đám dây leo để có thể mở rộng tấm nhìn về phía tay phải, nơi có thể sắp diễn ra cảnh sôi động chết người chỉ cách chỗ tôi khoảng chưa tới ba mươi mét. Vị trí mới không có tảng đá nhưng khi tác chiến tôi có thể thụt lui ẩn nấp một cách dễ dàng. Trên cây cao, tiếng của những con chim Mẹ dẫn mồi cho đàn con khi dồn dập lúc đứt khúc...nghe chanh chách!  Covey đang ở hướng Nam tiếng xa hẳn chúng tôi nhưng vọng lại có lúc rõ theo vòng bay. Nó đã được thông báo tình hình...chắc chắn là như thế và cái mắt xích trong cỗ máy chiến tranh đang hoạt động. Tôi sửa lại thế ngồi vì thấy tức nơi hông hay có phải tại mới ăn trưa...ăn quá sớm.  Thời gian cháy dần nhưng chậm. Sự căng thẳng theo nhịp kim đồng hồ được đẩy dần lên...đang ở con số mười một giờ ba mươi lăm. Rừng núi im như chết. Gió biến đi đâu mất làm gia tăng cái nóng trong người. Con tim tôi bỗng chỗi dậy khi đàn chim bất chợt kêu thé lên tiếng liên hồi. Tôi sửa lại thế ngồi mắt đăm đăm phía đường về của địch và thoảng nghe có tiếng người. Mọi sự chuẩn bị vào cuộc...cuộc chơi sinh tử!  Hai bánh xe đạp đang lao tới nhưng chưa thấy phần trên bởi bụi rậm án ngữ. Đột nhiên như một cánh đại bàng quái dị...tiếp sau là bóng cao lớn của Toán phó xuất hiện. Tức khắc hai thân người đổ nhào trên đường còn hai xe đạp văng xa. Đại úy và người truyền tin (radio man) chia nhau khống chế hai tên địch chưa kịp hoàn hồn bò dậy với nét mặt ngạc nhiên thất thần. Toán viên xạ thủ M79 cũng vừa xong nhiệm vụ thắt khăn vào miệng và bịt mắt tù binh...đã bị còng tay bằng chiếc còng nylon. Tôi vội gỡ mìn phòng thủ. Toán phó vừa phi tang đi hai chiếc xe đạp và hai mũ cối vào bụi rậm...trông thật oai bởi đeo hai súng và chiếc cặp da. Người đi đầu gỡ mìn vừa xong chuẩn bị di chuyển.  Mọi việc diễn tiến thuần thục như khi thực tập!  Bình tâm, khúc phim được điễn ngay trong đầu khi đang di chuyển. Hết sức nhanh chóng và thật đơn giản...Sự tấn công đầy kinh ngạc bằng chiếc áo lạnh đi rừng quả thật như một cánh đại bàng quất thẳng vào hai tên địch cùng một lúc. Tôi chứng kiến tận mắt như người đi xem kịch ngồi ở ghế hạng nhất. Cái khó khăn ở đây chính là lực tấn công...Toán phó hiển nhiên phải xoay chiếc áo, quật thật đúng lúc và đầy sức mạnh mới có thể đánh chính xác vào phía sau địch quân...không phải một mà cả hai...trong tình trạng đón đầu địch. Thật tài tình và nghề nghiệp...hai con mồi đều ngã về phía trước vừa vặn lọt vào tay của Đại úy và Radio man lao ra chờ sẵn. Tất cả đều được diễn ra trong thời gian cực nhanh...bằng những cái nháy mắt...rồi tức khắc Toán biến vào khu rừng chồi bên cạnh. Covey ở trên đầu từ lúc nào và Đại úy cũng đã đổi balo để trực tiếp giữ liên lạc. Một tiếng súng nổ ở hướng Tây. Tên bộ đội đi trước đứng khựng lại vẻ chần chừ nhưng khi mũi súng chĩa vào lưng, hắn mới chịu bước tới. Toán phó vừa đi vừa chiếu gương cho Covey. Đại úy bỗng ra lệnh đổi hướng , theo hướng Bắc...Covey đã chỉ điểm bãi đáp. Tôi và người Radio man rất bận với hai tù binh. Toán đã thoát ra khỏi vạt cây chồi đến một vùng cỏ tranh mịn óng vàng và hai chiếc A1 trên bầu trời đang đến theo cái dõi mắt của Đại úy. Ông ta ra lệnh trải tấm panel hồng đỏ và luôn chỉ điểm mục tiêu. Một rocket khói được Covey phóng ra và rồi loạt bom chùm từ A1 vãi tới tấp vào đúng khu rừng già có con đường. Tiếng súng địch từ dưới đất vang dội cùng tiếng người nghe lao xao hò hét...nhưng chưa thấy phòng không. Loạt bom napalm bùng lên khói lửa chạy dài cả vài trăm mét. Đại úy ra lệnh tôi và radio man mỗi người phụ trách một tù binh thoát trên chiếc trực thăng đầu tiên. Trên bầu trời hướng Đông những đốm trực thăng lớn dần và hai Cobra thế nào cũng đến trước. Tôi rút ra bình sịt gây mê...bằng cách sịt thẳng vào mặt mũi hai tên tù binh đang ngồi. Chiếc A1 xả loạt đại bác...tiếng nổ lan tràn từ trên lẫn bên dưới cùng với khói và lửa. Đoàn trực thăng nhanh chóng nhập cuộc. Sáu trực thăng thuộc phi đoàn 20 Air Commando biệt hiệu Green Hornets thuộc không quân Mỹ. Hai Huey gunship đang vòng trên bãi đáp và một chiếc xả loạt đại bác 20 ly dọn bãi. Đại úy ra dấu chuẩn bị...Toán viên đi đầu sẵn sàng phụ tôi khiêng tên tù binh lên trực thăng. Chiếc Gunship vừa vụt lên với hàng loạt tiếng đạn 40 ly nổ dài và sau nó chiếc Huey đang xuống bãi, cặp kè cùng chiếc Gunship theo yểm trợ. Toán phó radio man bồng tên tù binh đợi sẵn, cùng tôi cũng sẵn sàng.
           - Trên đường về căn cứ, người sĩ quan rước Toán khui chai sâm banh. Tôi thấy rõ nút chai bắn vút ra ngoài cửa trực thăng. Bên dưới sàn hai tên tù binh vẫn còn bất tỉnh dù rằng đã được cột chặt vào trực thăng theo nguyên tắc. Một điếu thuốc hút tự do sao mà sướng thế! Nhất là hòa cùng sâm banh uống ngụm to chất ngất. Nghe trong cái mũ bay...người sĩ quan rước Toán nói " Bên kia...Đại úy cũng đang uống mừng."  Và theo tay chỉ...Nắng vàng chiều rực rỡ trên phông nền xanh cây lá.
Biệt Kích Nguyễn Văn Hải