Làm
việc suốt đêm 14 tháng Ba năm 1975, qua sáng ngày hôm sau, Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú tư lệnh Quân Đoàn II cùng Đại Tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng phác họa sơ khởi
kế hoạch tái phối trí cho các lực lượng thuộc quân đoàn về Nha Trang. Đại tá Lý
cố gắng thuyết phục tướng Phú một lần nữa, xử dụng quốc lộ 19, nhưng ông ta không
chấp thuận, nói rằng, lệnh của Tổng Thống Thiệu không thể thay đổi được. Quyết định
đầu tiên của Tướng Phú là đưa phần lớn bộ tư lệnh của ông ta về Nha Trang. Từ đó,
sẽ soạn thảo kế hoạch phản công lấy lại thị xã Ban Mê Thuột, và di chuyển ngược
về Pleiku. Ông ta ra lệnh ngừng việc di chuyển hai tiểu đoàn còn lại của trung đoàn
44, sư đoàn 23 Bộ Binh, xử dụng trực thăng đưa ban tham mưu của ông ta về Nha
Trang ngay buổi sáng hôm đó. Một bộ tư lệnh nhẹ quân đoàn do Đại Tá Lý chỉ huy
sẽ đi cùng đoàn quân di tản trên bộ. Tướng Phú muốn sĩ quan thuộc cấp chỉ huy
cuộc di tản, trong khi ông ta thiết lập bộ tư lệnh tiền phương gần Phước An để
theo dõi việc giải tỏa quốc lộ 21 (Nha Trang – Ban Mê Thuột) và cố gắng lấy lại
thị xã Ban Mê Thuột.
Để
cuộc di tản được thành công, đơn vị Công Binh của Trung Tá Tính phải làm vài
nhiệm vụ quan trọng. Đầu tiên, họ phải làm một chiếc cầu nổi trên sông Ba, cách
Cheo Reo khoảng 10 dặm về hướng đông nam. Chuyện này, trung tá Tính có vấn đề, đơn
vị chuyên làm cầu nổi đang ở Nha Trang, do đó một đơn vị Công Binh khác sẽ phải
làm chiếc cầu nổi. Thiếu đơn vị đặc biệt, việc xây cầu nổi sẽ mất cả hai ngày.
Nhiệm vụ thứ hai, Công Binh phải sửa chữa, tăng thêm sức chịu đựng một chiếc cầu
yếu (cũ quá) trong quận Phú Túc, khoảng giữa Cheo Reo và Cung Sơn. Nhiệm vụ thứ
ba, sửa chữa, củng cố đoạn đường giữa Phú Túc và Cung Sơn, xây thêm chiếc cầu
thứ hai qua sông Ba, gần Cung Sơn. Nếu một trong những nhiệm vụ nêu trên thất bại,
đoàn quân triệt thoái quân đoàn II sẽ bị phơi bầy ra trước địch quân, thiếu công
sự phòng thủ, tiếp liệu, quân đội VNCH nằm yên chịu trận.
Vị
trí xa xôi, hẻo lành, ít được biết đến, trị trấn ngủ quên Cheo Reo, tỉnh Phú Bổn
sắp trở thành một trong những bãi chiến trường chính trong bi kịch cuối cùng của
miền Nam Việt Nam. Thị trấn nằm trong một thung lung nhỏ, rất đẹp, lôi cuốn,
bao quanh nơi hướng tây với những đỉnh núi cao từ rặng núi Chu Pa và phiá đông
là giòng sông Ba nước chẩy nhanh. Dân chúng sống trong những căn nhà cũ kỹ, mái
tôn, đa số chỉ một tầng, bao quanh khu vực trung tâm thành phố. Người dân điạ
phương có khoảng 20,000 người Thượng (Dân Tộc) thuộc sắc dân Jarai. Chính quyền
miền Nam có ba tiểu đoàn Điạ Phương Quân, một tiểu đoàn bảo vệ Cheo Reo, thủ phủ
tỉnh Phú Bổn, hai tiểu đoàn còn lại rải quân trong tỉnh làm nhiệm vụ canh gác,
bảo vệ khu vực.
Theo
kế hoạch sơ khởi của Đại Tá Lê Khăc Lý, quân đoàn II sẽ di tản theo ba nhóm trong
vòng ba ngày, mỗi ngày một nhóm. Ưu tiên một (hàng đầu) là chiếm đóng, bảo vệ
Cheo Reo, cho đơn vị Công Binh vào khu vực hành quân. Đơn vị tiền phương (đi đầu)
của tiểu đoàn 20 Công Binh rời Pleiku ngày 15 tháng Ba. Sau khi đơn vị Công
Binh di chuyển, liên đoàn 23 (liên đoàn 2 cũ, đơn vị trừ bị, nồng cốt của quân đoàn
II) được lệnh bảo vệ thị trấn Cheo Reo. Khi đơn vị BĐQ này đến Cheo Reo, một tiểu
đoàn rải quân trên rặng núi Chu Pa, đề phòng một trận tấn công của địch vào thị
trấn. Tiếp theo, nhóm đầu tiên di tản gồm có: liên đoàn 6 Biệt Động Quân (liên đoàn
BĐQ tổng trừ bị, được bộ TTM gửi lên quân đoàn II, hành quân vùng Tam Quan, Bồng
Sơn, tỉnh Bình Định cả hai năm trời, cuối cùng lên Pleiku, Kontum), một thiết đoàn
M-113 (thiết vận xa), và các đơn vị Công Binh Chiến Đấu còn lại, sẽ rời Pleiku
buổi sáng hôm 16 tháng Ba, đi về Cung Sơn. Vấn để bảo đảm an ninh đoạn đường từ
Cheo Reo đến Phú Túc sẽ do đơn vị Điạ Phương Quân tiểu khu Phú Bổn đảm trách.
Liên đoàn 6 Biệt Động Quân chịu trách nhiệm an ninh đoạn đường từ Phú Túc đến
Cung Sơn, bảo vệ đơn vị Công Binh Chiến Đấu sửa đường, xây chiếc cầu thứ hai, lớn
hơn bắc qua sông Ba. Điạ Phương Quân tiểu khu Phú Yên có nhiệm vụ bảo vệ chặng đuờng
cuối cùng, từ chiếc cầu mới xây thứ hai về đến thành phố Tuy Hòa.
Nhóm
thứ hai di tản, bắt đầu di chuyển từ mờ sáng ngày 17 tháng Ba. Nhóm này có bộ
chỉ huy nhẹ quân đoàn II của Đại Tá Lê Khắc Lý, liên đoàn 4 Biệt Động Quân (liên
đoàn BĐQ tổng trừ bị như liên đoàn 6 BĐQ), các đơn vị Thiết Giáp, Pháo Binh, phần
còn lại của trung đoàn 44, sư đoàn 23 Bộ Binh, và các đơn vị yểm trợ thuộc quân
đoàn II.
Nhóm
thứ ba gồm có: liên đoàn 25/BĐQ (kẹt trong Thanh An, Pleiku), liên đoàn 7/BĐQ
(tổng trừ bị, được Saigon gửi ra sau cùng… rồi phải di tản), liên đoàn 22/BĐQ
(liên đoàn BĐQ cuối cùng rút khỏi thành phố Kontum), sẽ bắt đầu di tản ngày 18
tháng Ba. Để giữ bí mật tuyệt đối về cuộc di tản, các đơn vị chỉ được thông báo
trước một tiếng đồng hồ. Các cơ quan hành chánh cũng như các đơn vị Điạ Phương
Quân, Nghĩa Quân phải ở lại phòng thủ hai tỉnh Kontum, Pleiku. Theo đúng kế hoạch,
khi các đơn vị trên quân đoàn II rút đi ngang qua Cheo Reo, liên đoàn 23 Biệt Động
Quân sẽ rút theo sau, bảo vệ đoạn hậu đoàn quân di tản.
Sau
khi liên đoàn 23/BĐQ rời Pleiku, Tướng Phú lên trực thăng bay đi Nha Trang. Chuẩn
Tướng Trần Văn Cẩm biết Tướng Phú đã đi khỏi Pleiku, ông ta nóng nẩy lên xe, ra
khỏi bộ tư lệnh quân đoàn II. Tướng Phú đã chỉ thị Tướng Cẩm ở lại chỉ huy,
theo dõi (supervise) cuộc di tản, nhưng ông ta không chịu làm việc với một vị
tướng mới lên như Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng BĐQ/QĐII. Ông ta bay đi
Tuy Hòa (Phú Yên), thông báo cho Đại Tá Lý rằng ông ta sẽ bay qua lại giữa Tuy
Hòa và Cheo Reo, theo dõi cuộc di tản.
Đại
Tá Lý bực tức, nghi ngờ Tướng Cẩm lo chuyện riêng ở Tuy Hòa thay vì giúp đỡ thảo
kế hoạch cho quân đoàn di chuyển. Vì Tướng Tất rất bận rộn chỉ huy, lo phương
tiện di chuyển cho các liên đoàn Biệt Động Quân, Tướng Phú đã đưa các sĩ quan
tham mưu cao cấp về Nha Trang, sự ra đi của Tướng Cẩm làm cho bộ tư lệnh nhẹ quân
đoàn chỉ còn lại Đại Tá Lý và vài sĩ quan tham mưu đê hoàn tất kế hoạch di tản
cho hàng ngàn quân nhân binh sĩ, cùng với xe cộ. Làm sao một sĩ quan có kinh
nghiệm như Tướng Phú có thể tin rằng, với hệ thống chỉ huy hỗn loạn của ông ta,
sự bỏ rơi thường dân, và sự hiện diện của ông ta nơi cuối, thay vì đích thân chỉ
huy, đi đầu đoàn quân mà không đưa đến thảm họa, là điều ngoài sự hiểu biết (của
tác giả Jay Veith). Một điều duy nhất có thể giải thích là ông ta tuân theo lệnh
của Tổng Thống Thiệu, lấy lại Ban Mê Thuột, coi thường việc di tản (dễ dàng). Nếu
đúng như thế, Tướng Phú thiếu sự học hỏi trong quân đội, các trận rút lui, chuyển
quân cấp lớn rất khó khăn, xoay sở, đòi hỏi việc soạn thảo kế hoạch chính xác.
Sau
phiên họp mỗi buổi sáng hôm 15 tháng Ba, Đại Tá Lý vi phạm lệnh của Tổng Thống
Thiệu về việc thông báo cho người Hoa Kỳ, bí mật nói với người đại diện cơ quan
CIA điạ phương (Pleiku) gom nhân viên lại
rồi ra đi. Sau khi nhân viên CIA đi khỏi, Tướng Phú, Đại Tá Lý mời đại diện nguời
Hoa Kỳ ở Pleiku, Earl Thieme vào văn phòng Tướng Phú. Tướng Phú báo cho ông
Thieme biết nên di tản người Hoa Kỳ và người ngoại quốc ngay tức khắc mà không
nói lý do tại sao?
Sau đó, nhân viên CIA báo cho trùm CIA trong
Saigon Tom Polgar rằng quân đoàn II VNCH đang di tản. Cùng lúc, Thieme báo cáo
cho xếp của ông ta trong tòa lãnh sự ở Nha Trang, Moncrieff Spear. Polgar gọi điện
thoại hỏi Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh của Tổng Thống Thiệu trong
dinh Độc Lập, chuyện di tản có đúng không? Tướng Quang theo lệnh Tổng Thống Thiệu,
không cho người Hoa Kỳ biết nên chối không có chuyện đó. Mặc dầu bị chối bỏ,
Polgar vẫn tin nhân viên của mình hiện diện ở Pleiku, ra lệnh tất cả nhân viên
CIA ra khỏi vùng cao nguyên (quân đoàn II). Phụ tá Đại Sứ Hoa Kỳ, Wolfgang
Lehmann, sau khi nghe Spear và Polgar thông báo về chuyện di tản, ra lệnh cho tất
cả người Hoa Kỳ ra khỏi (quân đoàn II).
Tướng
Phú và Đại Tá Lý không phải là hai người duy nhất không tuân lệnh Tổng Thống,
giữ bí mật việc di tản. Sau buổi họp chiều ngày 14 tháng Ba ở Pleiku, mà Tướng
Phú truyền lại lệnh (di tản) của Tổng Thống Thiệu, Chuẩn Tướng Không Quân Phạm
Ngọc Sang, lập tức gọi điện thoại báo cho cấp chỉ huy, tư lệnh Không Quân VNCH,
Trung Tướng Trần Văn Minh, hỏi (xin ý kiến) nên làm gì đối với quân nhân thuộc
cấp, và quân dụng. Tướng Sang không dễ dàng đi ngay khi được thông báo, ông ta
có trong tay hàng tấn đồ phụ tùng, động cơ, nhiên liệu, bom đạn, phi cơ bị hư hại,
cơ sở sửa chữa, bảo trì phi cơ. Tướng Minh nói ông ta làm theo lệnh của Tướng
Phú, nhưng có thêm đường lối giải quyết khác tốt hơn. Sáng sớm ngày 15 tháng
Ba, Tướng Minh gửi mấy phi cơ vận tải C-130 lên Pleiku để đem quân dụng về
Saigon. Trên thức tế, các phi cơ C-130 gửi lên Pleiku để chở quân dụng, quân nhân
Không Quân và thân nhân về Saigon.
Với
sự hiện diện của các phi cơ vận tải, di tản gia đình binh sĩ Không Quân, tin đồn
lan ra khắp nơi, đến những người dân khác. Trong miền Nam Việt Nam, những người
sống gần phi trường, các căn cứ quân sự thường để ý nếp “sinh hoạt” trong căn cứ
và sẽ đi theo ngay tức khắc khi quân đội VNCH di tản. Trong trường hợp này, đường
xá, các quốc lộ chính (14, 19, 21) trên vùng cao nguyên đã bị cắt đứt từ 10 ngày
qua. Cả thường dân lẫn gia đình binh sĩ đều lo lắng. Khi giá vé máy bay Air
Vietnam cho chuyến bay từ Pleiku về Saigon tăng vọt lên, họ chạy vào bên trong
phi trường. Hỗn loạn tràn lan, thường dân và quân nhân Không Quân tranh giành
nhau chỗ lên phi cơ. Tướng Sang cố gắng lập lại an ninh trật tự, nhưng dân tình
qúa sợ hãi, gây khó khăn cho binh sĩ Không Quân trong việc tiêu hủy các dụng cụ,
quân dụng không thể đem đi được. Đến buổi chiều, địch quân pháo kích vào phi
trường, vấn đề di tản bằng phi cơ chấm dứt, nhiều quân nhân Không Quân không
may cùng với thường dân phải tìm cách đi theo đoàn người di tản trên liên tỉnh
lộ 7B mà những ngày sắp tới sẽ biến thành “con đường máu và nước mắt”.
Sáng
sớm hôm đó, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất bay đến vị trí Biệt Động Quân, Thiết Giáp đang
cố gắng diệt “chốt” mở đường trên quốc lộ 19 (từ Pleiku đi Qui Nhơn). Ông ta muốn
gặp Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Kỵ Binh, được tăng cường
liên đoàn 4 BĐQ. Ông ta ra lệnh cho Đại Tá Đồng ngừng tấn công, và cho ông ta
biết về kế hoạch di tản. Sau đó ra lệnh cho Đại Tá Đồng bay đến Cheo Reo lập sở
chỉ huy ở đó. Tại phòng tuyến mới (Cheo Reo), lữ đoàn 2 Kỵ Binh được tăng cường
hai liên đoàn 6 và 23 BĐQ. Nhiệm vụ dành cho Đại Tá Đồng, bảo vệ thị trấn Cheo Reo
và liên tỉnh lộ 7B, để đoàn quân di tản ngang qua.
Đại
Tá Đồng ngạc nhiên. Mặc dầu bị mất nhiều M-113 hôm trước, việc nhổ mấy cái “chốt”
của địch phải chịu tổn thất và mất thời gian. Nhưng cuộc di tản còn tệ hơn nữa,
phải bỏ lại số lượng lớn xăng dầu xử dụng cho chiến xa, và đạn dược, bộ Tổng
Tham Mưu vừa gửi lên Kontum, Pleiku trong tháng Giêng vừa qua.
Mặc
dầu bực tức, Đại Tá Đồng bay lên Cheo Reo giữa trưa ngày 15 tháng Ba. Ông ta gặp
viên tỉnh trưởng đang ăn trưa, vẫn chưa biết quân đoàn II đang chuẩn bị di tản
ngang qua tỉnh của ông ta. Sáng hôm sau, Đại Tá Đồng và vài sĩ quan tham mưu đi
thám sát con đường từ Cheo Reo đến Phú Túc. Ông ta nhận thức ngay tức khắc, nơi
đèo Tu Na, một ngọn đèo dốc đứng giữa Cheo Reo và nơi chiếc cầu nổi qua sông Ba
sẽ được xây dựng, phải có một đơn vị Biệt Động Quân nằm giữ. Đó là điểm “mắc
nghẹn” trên lộ trình, rất dễ bị địch phục kích. Ông ta nói rằng, đã báo cáo điều
này cho Tướng Tất qua hệ thống truyền tin (tác giả Jay Veith phỏng vấn rất nhiều
người), nhưng ông Tất trả lời “Không. Chờ lệnh”. Tướng Tất nói, điều ông Đồng kể
không đúng, ông ta có hai liên đoàn BĐQ (4 và 23) biệt phái trong khu vực Cheo
Reo, toàn quyền xử dụng, đưa một đơn vị BĐQ lên chiếm đèo Tu Na dễ dàng. Đó là điều
“hiểu lầm” đầu tiên, nhưng không phải lần cuối, thiếu sự phối hợp, làm việc giữa
các sĩ quan cao cấp VNCH trên quân đoàn II. Những người chịu trách nhiệm phần nào
trên đường di tản.
Cũng
trong buổi sáng ngày 16 tháng Ba, thiết đoàn 19 Kỵ Binh từ Kontum về đến
Pleiku. Một chi đoàn thuộc thiết đoàn này tăng cường cho liên đoàn 6 BĐQ. Với đoàn
thiết vận xa M-113 dẫn đầu, đoàn quân di tản thuộc nhóm thứ nhất rời Pleiku trên
một hàng dài quân xa chở Biệt Động Quân, Công Binh, và các đơn vị yểm trợ. Đoàn
quân này đến Cheo Reo lúc 11:00 giờ sáng. Thiết đoàn 19 Kỵ Binh được lệnh Đại Tá
Đồng, tiếp tục di chuyển trên liên tỉnh lộ 7B băng qua Phú Túc đến tiền đồn Điạ
Phương Quân Cà Lui, cách Cheo Reo 34 dặm về hướng đông nam. Biệt Động Quân bảo
vệ Công Binh sửa chữa chiếc cầu ở Phú Túc.
Nhìn
sơ qua, Tướng Phú đã đúng trên hai điểm. Xử dụng liên tỉnh lộ 7B là một bất ngờ
chiến thuật. Hai liên đoàn BĐQ cùng với một thiết đoàn Kỵ Binh đã di chuyển từ
Pleiku đến Cheo Reo mà quân đội Bắc Việt vẫn chưa có phản ứng (chưa biết). Thực
ra, quân đội Bắc Việt đã được thông báo (có thể do du kích diạ phương), sự hiện
diện của Biệt Động Quân (liên đoàn 23) trong khu vực Cheo Reo, nhưng họ đoán lầm…
“Chúng tôi nghĩ, đơn vị đó để… chuẩn bị cho (làm đầu cầu) trận phản công vào
Ban Mê Thuột”
Tướng
Phú cũng đúng về việc phải di chuyển nhanh, trong khi Bắc Việt không cung cấp
chính xác ngày giờ tấn công vào Cheo Reo và Pleiku (tài liệu quân đội Bắc Việt,
tác giả tìm hiểu, nghiên cứu), Chỉ thị của Tướng Giáp (Võ Nguyên Giáp) và ý định
của Tướng Dũng (Văn Tiến Dũng) rõ ràng: hai thành phố đó là hai mục tiêu kế tiếp.
Ngoài tiểu đoàn 9 điạ phương đóng quân trong khu vực rừng núi cách Cheo Reo vài
dặm về hướng tây, thêm một tiểu đoàn nữa di chuyển vào vị trí trợ lực cho trận
tấn công (Cheo reo). Trong tháng Hai, công binh quân đội Bắc Việt đã bắt đầu, bí
mật xây dựng con đường từ quốc lộ 14 ngang qua Cheo Reo. Tiểu đoàn 2 trung đoàn
48 đã làm xong con đường và chỉ cách thị trấn Cheo Reo không tới 10 dặm. Thêm nữa,
hôm 14 tháng Ba, toán tiền sát viên (đề lô) pháo binh quân đội Bắc Việt xâm nhập
vào thị trấn quan sát và chấm tọa độ một số mục tiêu (hỏa tập tiên liệu). Với
những tin tức, yếu tố kể trên, quân đội Bắc Việt đã sẵn sàng tấn công thị trấn
Cheo Reo…
Một
câu hỏi khác nêu lên: Tướng Phú có cơ hội (đủ thì giờ) để sửa chữa đường xá, cầu
cống cho việc di tản trước khi quân đội Bắc Việt phản ứng? Câu trả lời có thể
(không chắc chắn), nếu cuộc hành quân triệt thoái (di tản) được soạn thảo cẩn
thận, chi tiết kỹ càng. Nhưng Tổng Thống Thiệu chỉ cho thời gian ba ngày và Tướng
Phú không nghĩ đến những lựa chọn khác (xử dụng QL 19), ra lệnh di tản ngay tức
khắc làm cho mọi cố gắng trở nên đen tối.
Trong
khi Tướng Phú không (hoặc chưa) để ý đến sự hiện diện của địch trong khu vực
Cheo Reo hoặc trên đường di tản (liên tỉnh lộ 7B), từ sáng ngày 15 đến sáng ngày
17 tháng Ba, địch quân vẫn chưa thấy xuất hiện trong khu vực. Lý do quân đội Bắc
Việt đoán sai ý định của Tướng Phú, họ cho rằng đơn vị Biệt Động Quân trong
Cheo Reo (liên đoàn 23 BĐQ) làm đầu cầu cho các đơn vị VNCH khác phản công về
hướng Ban Mê Thuột. Nếu Tướng Phú hay Đại Tá Lý chờ cho Công Binh làm xong chiếc
cầu nổi, rồi mới cho đơn vị nặng như Thiết Giáp di tản, hy vọng đoàn chiến xa đi
thoát, qua khỏi Cheo Reo. Trong khu vực thung lũng nhỏ hẹp, các đơn vị VNCH nằm
chịu trận trước các họng súng cá nhân, cộng đồng của quân đội Bắc Việt.
Một
vấn đề khác, gây trở ngại cho quân đội VNCH, kiểm soát dân chúng, dân tỵ nạn,
chạy giặc. Đi sau đoàn quân di tản nhóm đầu tiên là một hàng dài xe cộ bị bắn
cháy gồm có: xe vận tải, xe bus, xe gắn máy và xe hơi nhỏ, chứa đầy thường dân đã
qúa sợ hãi. Số người tỵ nạn đông đảo trên liên tỉnh lộ 7B cũng làm cho địch quân
để ý.
Đến
giữa buổi chiều ngày 16 tháng Ba, khoảng 900 xe cộ đủ loại chen chúc nhau vào
thị trấn Cheo reo. Đường lên đèo Tu Na dốc cao nên làm xe cộ bị kẹt cứng. Đến tối
ngày 16 tháng Ba, một số xe cộ đã đi thoát, đi trên chiếc cầu cũ băng qua sông
Ba. Phần chiến cụ nặng, chiến xa, đại bác vẫn còn ở Pleiku.
Trong
khi đó vị tư lệnh sư đoàn 320 Bắc Việt, Đại Tá Kim Tuấn làm theo lệnh của Đại
Tướng Văn Tiến Dũng, ra lệnh cho hai tiểu đoàn gần Cheo Reo di chuyển. Tiểu đoàn
2 trung đoàn 48 sẽ tấn công từ rặng núi Chu Pa nơi hướng tây Cheo Reo, trong
khi tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 di chuyển về hướng nam, cắt đường nơi đèo Tu Na.
Tất cả mọi xe cộ của địch dành ưu tiên chuyên chở hai tiểu đoàn khác của trung đoàn
48 từ quốc lộ 14 đến vị trí bắt tay với tiểu đoàn 2. Sau đó đoàn xe sẽ phải đi đón
phần còn lại của trung đoàn 64. Trung đoàn còn lại của sư đoàn 320 (sư đoàn Thép),
trung đoàn 9 vẫn còn đóng quân trên quốc lộ 14 ngay biên giới Darlac và Pleiku.
Trung đoàn này nhận được lệnh mới, di chuyển trên quốc lộ 14 lên hướng bắc, nơi
ngã rẽ vào liên tỉnh lộ 7B, cắt đường không cho các đơn vị VNCH trên quân đoàn
II di tản. Sau đó sẽ đi vào liên tỉnh lộ 7B đến Cheo Reo. Sư đoàn 320 Bắc Việt
tấn công làm ba mũi, trung đoàn 9 từ hướng bắc, trung đoàn 48 từ hướng tây và
trung đoàn 64 cắt đường di tản ngay đèo Tu Na, phía nam thị trấn Cheo Reo.
Tất
cả đều vội vã, quân đội VNCH trên quân đoàn II tiếp tục di tản. Đêm 16 tháng Ba
năm 1975, nhóm di tản đầu tiên đến Phú Túc và Cà Lui. Tại đây, lệnh lạc sai lầm
bắt đầu xẩy ra. Liên đoàn 6 BĐQ để một tiểu đoàn bảo vệ Công Binh sửa chữa chiếc
cầu cũ ở Phú Túc, phần còn lại hai tiểu đoàn BĐQ cùng với Thiết Giáp (Thiết oàn
19 Kỵ Binh) đúng ra phải nằm lại Cà Lui theo lệnh Đại Tá Đồng, họ tiếp tục đi về
hướng Cung Sơn, và ở đó mấy ngày không … làm gì!
Đến
đêm ngày 16 tháng Ba, hàng ngàn thường dân, binh sĩ bị đói, đi vào Cheo reo tìm
thức ăn và chỗ ngủ qua đêm. Thị trấn buồn ngủ Cheo Reo trở nên hỗn loạn. Nhiều
nhóm binh sĩ không có cấp chỉ huy trở nên vô kỷ luật, đập phá, trộm cướp trong
thành phố, cảnh sát rã ngũ đi theo dân tỵ nạn.
Thành
phố Pleiku cũng trở nên hỗn loạn. Ngày hôm trước vẫn còn xe cảnh sát đi tuần, đến
trưa ngày 16 tháng Ba, nhìn thấy cảnh quân đội VNCH đốt phá đồ tiếp liệu không đem
theo được, rồi nhóm di tản đầu tiên rời Pleiku, đơn vị bảo vẹ an ninh thành phố
rã ngũ, theo gia đình di tản. Chiếu hôm đó Đại Tá Lý gọi Chuẩn Tướng Trần Đình
Thọ trưởng phòng 3 bộ Tổng Tham Mưu báo cáo binh sĩ vô kỷ luật đầy đường phố,
cướp bóc, hãm hiếp. Sự hỗn loạn gây ảnh hưởng đến việc di tản. Tướng Thọ báo cáo
lên cho Đại Tướng Cao Văn Viên, ông Viên gọi Tướng Phú, ra lệnh phải “dẹp loạn”.
Tướng Phú trả lời, báo cáo của Đại Tá Lý không đúng, Pleiku vẫn nằm trong sự kiểm
soát. Thay vì bay về Pleiku chỉ huy, Tướng Phú nổi giận với Đại Tá Lý về chuyện
báo cáo cho bộ Tổng Tham Mưu. Sự làm việc giữa hai người coi như bế tắc, từ lúc
đó trở về sau, Đại Tá Lý gần như không còn tuân lệnh Tướng Phú và không làm việc
với các sĩ quan cao cấp trên quân đoàn II. Ông ta từ chối làm việc, làm cho hệ
thống chỉ huy bị hư hại, khó làm việc. Tình trạng trở nên bết, đêm 16 Tướng Phú
nói với Tướng Cẩm, báo cho các vị Tỉnh Trưởng Pleiku, Kontum biết phải ở lại bảo
vệ lãnh thổ cho các đơn vị chính quy di tản. Tuy vậy, khi được biết quân đội
VNCH di tản, binh sĩ người Thượng tự động đào ngũ trở về làng của họ.
Ký
gỉa Nguyễn Tú, của tờ báo nổi tiếng Chính Luận, được phỏng vấn Tướng Phú trong
giữa tháng Hai, và trở lại Pleiku trước khi Ban Mê Thuột bị tấn công. Ông ta ở
trong thành phố lúc bắt đầu di tản, và viết một loạt bài tường thuật, những hãi
hùng trong cuộc di tản. Những bài viết của ông ta cho người dân thủ đô Saigon
biết về cuộc di tản, làm chính quyền Tổng Thống Thiệu không hài lòng.
Ông
Tú viết rằng, những giờ phút sáng sớm hôm 16 thnág Ba, quân đội VNCH bắt đầu đốt
những đồ tiếp liệu, dân chúng tràn ra ngoài đường. Người dân “vội vã, lo sợ đưa
đồ đạc, quần áo, vật dụng cá nhân lên tất cả mọi thứ xe cộ: xe vận tải, xe
Jeep, xe chở rác, xe gắn máy, xe kéo gỗ (xe be), ngay cả xe chữa lửa… Sau khi
xe đã chất đầy hàng hóa đồ đạc, người dân leo lên ngồi trên đống hàng hóa. Chiếc
xe nào cũng chở đầy đồ đạc rất nặng nề.” Ông Tú xác nhận dân chúng bắt đầu ra đi
từ lúc trưa ngày 16, nhưng đa số ra di lúc 8:00 giờ tối. Ra khỏi Pleiku đuợc mấy
dặm, xe cộ bị kẹt, rồi thông suốt, rồi lại kẹt … với nhiều lý do, nhiều chiếc bị
hư, hỏng máy không chạy được nữa. Chuyện buồn nhất, hàng ngàn người phải đi bộ.
Ký giả Nguyễn Tú 56 tuổi đi bộ cùng với những người tỵ nạn kém may mắn. Ông ta
đặc biệt lo lắng “người già, đứa trẻ, trẻ sơ sinh vẫn còn bế trên tay cha mẹ,
những phụ nữ mang bầu, họ đi bộ với nhau”. Ông ta viết tiếp “mỗi gia đình đem
theo tấm chiếu để ngủ và gói quần áo. Buồn và lo lắng, gia đình theo sau gia đình,
làm thành một hàng dài, chiếm một góc đường để tránh bị xe chạy trên đường đụng
phải. Đèn xe chiếu bóng dáng những người đàn ông tỵ nạn, khom lưng gánh vác gánh
nặng cho vợ con, và những bóng nhỏ của trẻ em cũng cố gắng bám theo cha mẹ.”
Suốt
đêm, hàng dài người kéo nhau lê lết đi bộ đến Cheo Reo. Khi ánh mặt trời lên, sức
nóng làm cho đoàn người đi bộ thấm mệt nhanh chóng. Những người gìa, đàn bà, trẻ
em “đi bộ dọc theo con đường, dưới sức nóng của ánh mặt trời. không có một giọt
nước để uống.” Ký giả Nguyễn Tú sợ rằng nhiều người sẽ chết vì khát. Ông ta đã
chứng kiến nhiều cuộc di tản, kể cả cuộc di tản chiến thuật khỏi Quảng Trị trên
quốc lộ 1 ngoài Quảng Trị năm 1972, quân cộng sản bắn đạn pháo binh trên con đường
làm chết nhiều thường dân, đoạn đường có tên “Xa lộ Tử Thần” (Highway of Death
- Đại Lộ Kinh Hoàng).” Ông Tú cho rằng lần rút lui trên quân đoàn II này “kinh
hoàng” hơn nhiều.
Ngoài
Pleiku, ba liên đoàn Biệt Động Quân cố gắng theo kế hoạch di tản. Liên đoàn 25
BĐQ bắt đầu tránh đụng độ với địch để rút ra khỏi Thanh An, nhập vào đoàn quân
di tản trên quốc lộ 14, trong khi đó liên đoàn 4 BĐQ, rút theo quốc lộ 19 về
Pleiku. Trên Kontum, tỉnh cực bắc trên vùng cao nguyên, việc di tản gặp trở ngại,
liên đoàn 22 BĐQ chỉ có đủ xe (GMC) để chở hai tiểu đoàn, tiểu đoàn còn lại vẫn
còn kẹt trong thành phố Kontum. Đoàn xe đã đi được nửa đường, đến đèo Chu Pao,
Tướng Tất ra lệnh cho liên đoàn 22 tiếp tục di chuyển, bỏ rơi tiểu đoàn còn lại
(95 BĐQ), nhưng vị liên đoàn trưởng không đồng ý bỏ rơi thuộc cấp. Trung Tá Bùi
Văn Huấn, liên đoàn trưởng liên đoàn 22 BĐQ ra lệnh cho đoàn xe không quay trở
về Kontum đón tiểu đoàn còn lại (phải bỏ ba lô lại, đem theo súng đạn mới đủ chỗ
lên xe. (Theo lời Thiếu Tá Nguyễn
Thanh Vân TĐT/TĐ95/BĐQ. vđh),
Trung Tá Huấn trả lời Tướng Tất “Tất cả cùng đi hoặc cùng chết”. Họ làm cả hai điều,
là đơn vị rút cuối cùng, rất ít biệt động quân thuộc liên đoàn 22 về đến miền
duyên hải (Tuy Hòa).
Đến
buổi sáng ngày 17 tháng Ba, vấn đề thông báo cho các đơn vị di tản trước một giờ
đồng hồ hủy bỏ. Ai cũng bết về cuộc di tản và không ai muốn bị bỏ rơi. Một đoàn
xe quân đội khổng lồ, cuối cùng rời Pleiku. Sau đó, đường dây điện thoại bộ tư
lệnh quân đoàn II hết hoạt động. Vài toán Công Binh còn lại sửa soạn gài chất nổ,
phá hủy trung tâm hành quân trong bộ tư lệnh QĐII. Liên đoàn 7 Biệt Động Quân (đơn
vị tổng trừ bị cuối cùng, Đại Tá Nguyễn Kim Tây là LĐT. vđh) vừa được bộ Tổng Tham Mưu gửi lên vùng
cao nguyên, nhập vào phiá sau đoàn xe di tản trên quốc lộ 14, liên đoàn 4 BĐQ
theo sau. Liên đoàn 22 BĐQ rút lui sau cùng từ Kontum về đến Pleiku khoảng buổi
trưa ngày 17 tháng Ba được lệnh bảo vệ phiá sau đoàn xe. Chiều hôm đó, Không Quân
VNCH sẽ bắn phá phi trường, các phi cơ bị hư hỏng không bay được, các kho bom đạn,
tiếp liệu trong phi trường.
Liên
đoàn 25 Biệt Động Quân bị kẹt trong Thanh An, quân đội Bắc Việt bám sát không
cho rút. Theo lệnh của Tướng Văn Tiến Dũng, sư đoàn 968 cho một tiểu đoàn băng
rừng, đi vòng ra phiá sau, đóng chốt cắt đường không cho liên đoàn 25 BĐQ rút
lui. Sáng sớm ngày 17 tháng Ba (đoàn xe di tản cuối cùng, liên đoàn 25 BĐQ không
còn thời gian, bắt buộc phải rút để đi theo đoàn quân. vđh), quân đội Bắc Việt pháo kích, tấn công dữ
dội vào phòng tuyến BĐQ, đúng lúc cả đơn vị được lệnh phải rút lui. Liên đoàn
25 chưa ra khỏi khu vực hành quân đã bị tổn thất rất nặng. Bộ tư lệnh quân đoàn
II lúc đó chỉ có một mình Tướng Tất, ông ta yêu cầu phi cơ oanh kích yểm trợ
cho liên đoàn 25 BĐQ nhưng vô vọng… phi cơ không có sẵn. Tướng Tất ra lệnh cho
liên đoàn phân ra từng toán nhỏ, cố vượt thoát nhưng rất ít người thoát ra được
để đi theo đoàn xe. Sau đó, ông ta rời Pleiku bay đi Cheo Reo khoảng 3:00 giờ
chiều.
Cũng
buổi sáng ngày 17 tháng Ba, một trung đoàn khác thuộc sư đoàn 968 hoạt động gần
Kontum, cắt quốc lộ 14 nơi phiá nam thành phố, bắt được vị tỉnh trưởng cùng các
sĩ quan tham mưu tiểu khu Kontum trên đường đi về Pleiku. Quân sử Bắc Việt nói
rằng, lúc 11:30 phút sáng, trung đoàn 95A (độc lập) cùng sư đoàn 968 tiến vào
thành phố Pleiku, sau đó Kontum. Tài liệu VNCH cho biết, phi trường và nhiều căn
cứ khác vẫn hoạt động cho đến ngày 18 tháng Ba. Bỏ qua chuyện ngày tháng, quân đội
Bắc Việt lấy được hai thành phố phòng thủ vững chắc không cần bắn một phát súng.
Tại
Cheo reo, vòng vây từ từ siết lại, đoàn xe di tản kẹt cứng vì đường xá, cầu cống
xấu và số lượng xe cộ (hạng nặng như GMC) di chuyển trên đường. Đêm 16 tháng
Ba, tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 di chuyển lên rặng núi Chu Pa nơi hướng tây Cheo
Reo, chạm súng với mấy tiền đồn (chốt BĐQ. Chiến thuật BĐQ khi phòng thủ phải rải
chốt hoặc bung chốt ra. vđh) thuộc liên đoàn 23 Biệt Động Quân. Đến sáng ngày
17 tháng Ba, phần còn lại của trung đoàn 48 lên tiếp viện cho tiểu đoàn 2, tổ
chức phục kích. Biệt Động Quân đưa thêm quân ra tiếp cứu các tiền đồn, đụng với
cả trung đoàn 48, sư đoàn 320, bị thiệt hại nặng phải lui về Cheo Reo. Đến
10:00 sáng, trung đoàn 48 ra lệnh cho tiểu đoàn 1 băng rừng, di chuyển lên hướng
bắc, cắt liên tỉnh lộ 7B nơi phía bắc thị trấn. Đến buổi chiều, trung đoàn 48
được tăng cường hai đại bác 105 ly (lấy được của quân đội VNCH), nhưng lúc đó
trời đã tối, không thể đưa hai khẩu đại bác vào vị trí tác xạ.
Trong
khi đó, tiểu đoàn 9 trung đoàn 64 di chuyển băng rừng suốt đêm, lúc gần trưa ngày
17 tháng Ba, đơn vị này đến liên tỉnh lộ 7B, và khoảng 4:00 gờ chiều đến đèo Tu
Na.
Mặc
dầu xe dân sự, xe quân sự nhẹ tiếp tục xử dụng chiếc cầu cũ qua sông Ba, sự hỗn
loạn đêm trước gây nên tình trạng kẹt xe (kinh khủng) gây trở ngại, khó khăn
cho đoàn quân di tản theo thứ tự. Đến xế chiều ngày 17 tháng Ba, Công Binh làm xong
chiếc cầu nổi, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên rời Cheo Reo hướng về đèo Tu Na.
Khi
nghe được tiếng động cơ chiến xa rầm rộ di chuyển, đại đội đi đầu tiểu đoàn 9
nhanh chóng tìm chỗ trú ẩn sau những gò mối trong cánh rừng rậm, hai bên đường
(liên tỉnh lộ 7B). Chuẩn bị súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa (B-40, B-41), quân
đội Bắc Việt chờ cho đoàn chiến xa chạy chậm lại vì phải leo dốc lên đèo. Khi đoàn
chiến xa vào đúng điểm phục kích, quân đội Bắc Việt khai hỏa. Sau vài phút, hơn
10 chiến xa, thiết vận xa (M-113) bị bắn cháy. Thất bại trong việc bảo vệ đèo
Tu Na, đưa đến hậu qủa thảm khốc. (đường đèo rất hẹp, rất xấu, không chạy được,
lạc tay lái chút xíu là rơi xuống vực… nằm chịu trận. Với hơn 10 chiến xa bị bắn
cháy trên đèo, đèo Tu Na không còn xử dụng được nữa… tất cả xe dân sự, quân sự
phiá sau phải xuống xe lội bộ. vđh)
Sau
khi đèo Tu Na bị tấn công, Đại Tá Đồng nhận định rằng, cần phải rút ra khỏi
Cheo Reo. Ông ta quyết định cho đơn vị Thiết Giáp tấn công đêm, đánh xuyên qua
các nút chặn của địch. Đại Tá Đồng yêu cầu cho trực thăng chiếu đèn dọc theo
con đường, và thả hỏa châu chiếu sáng khu vực (xe tăng cần có ánh sáng để di
chuyển) và các chiến xa của ông ta sẽ xả hết tốc lực băng qua. Không dễ như ông
ta tính toán, quân đội Bắc Việt bắt được làn sóng truyền tin cuộc nói chuyện của
ông ta, họ lập tức đặt mìn trên đường, tăng cường thêm quân cho các nút chặn.
Khoảng giữa đêm, Đại Tá Đồng cố gắng phá vòng vây, ngồi trên một xe tăng M-48,
ra lệnh tiến lên, với tiếng súng đại liên 50 nổ dòn, quạt qua lại hai bên đường,
được trực thăng võ trang yểm trợ bắn dọc theo lộ trình. Với hỏa lực khủng khiếp
của trực thăng, chiến xa, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 vẫn không bỏ chạy, bám sát
trận điạ. Không có bộ binh (BĐQ) đi trước mở đường, con đưòng hẹp khó xoay sở,
các chiến xa trở thành các mục tiêu dễ dàng cho các khẩu súng B-40, B-41 và đại
bác 57 ly không dật của địch. Khi đoàn xe vào đến “tử điạ” (killing zone), các ổ
súng của quân đội Bắc Việt nổ vang dội. Năm phút sau, bẩy chiến xa bị loại khỏi
vòng chiến, bốc cháy. Khi Đại Tá Đồng cố gắng điều động đơn vị, làn sóng người
tỵ nạn tràn lên (họ chạy theo đoàn quân VNCH vì không muốn bị bỏ rơi) gây khó
khan, trở ngại cho việc phản công của các chiến xa. Sợ cán lên thường dân, ông
ta ra lệnh mở đèn lái lên, kết qủa thêm mấy chiếc bị bắn cháy. Thấy không có kết
qủa, Đại Tá Đồng ra lệnh rút lui. Trong vòng sáu tiếng đồng hồ, Thiết Giáp tổn
thất cao nhất trong suốt cuộc chiến.
Lúc
7:00 giờ sáng ngày 18 tháng Ba, phần còn lại của trung đoàn 64, sư đoàn 320 Bắc
Việt đến Cheo Reo, các ổ súng đại bác của họ cũng đã đươc đưa vào vị trí. Liền
sau đó, bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH gửi công điện cho Tướng Phú ở Nha Trang, bắt
được công điện của sư đoàn 320 Bắc Việt, chuẩn bị tấn công, tiêu diệt đoàn quân
di tản ở Cheo Reo. Tướng Phú ngay tức khắc lên trực thăng bay đến Cheo Reo. Ông
ta ra lệnh cho Đại Tá Đồng, xử dụng liên đoàn 7 Biệt Động Quân cùng với Thiết
Giáp mở đường, đánh xuyên qua các nút chặn nơi đèo Tu Na.
Gom
lại được hơn 20 chiến xa cùng với nhiều xe vận tải (GMC), Đại Tá Đồng ra lệnh tấn
công trước buổi trưa. Liên đoàn 7 Biệt Động Quân di chuyển cẩn thận qua đèo, mở
đường cho Thiết Giáp theo sau. Biệt Động Quân đánh xuyên qua dễ dàng, nhưng bất
ngờ chuyện xui xẻo xẩy ra. Khi một tiểu đoàn BĐQ lên đến đỉnh đèo, phi cơ VNCH
được Đại Tá Đồng gọi đến yểm trợ trận tấn công, thả bom lầm trúng vị trí tiểu đoàn
BĐQ, nhiều binh sĩ tử trận trong số có viên tiểu đoàn trưởng BĐQ và mấy chiến
xa bị hư hại.
Khi
vị tư lệnh sư đoàn 320 Bắc Việt được tin, liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã đánh
xuyên qua các nút chặn, ông ta ra lệnh cho phần còn lại của trung đoàn 64 tấn công
lên đèo Tu Na. Nhưng đã trễ, liên đoàn 7 BĐQ và một số chiến xa của Đại Tá Đồng
đã đi thoát, tuy nhiên họ vẫn khóa chặt con đường thoát đối với tất cả xe cộ còn
lại.
Trong
khi Biệt Động Quân chiến đấu sống chết trên đèo Tu Na, Pháo Binh Bắc Việt đã sẵn
sàng. Trưa ngày 18 tháng Ba, họ bắt đâu pháo kích vào Cheo Reo. Với hàng ngàn
thường dân, hàng trăm xe cộ đủ loại kẹt trong một thị trấn nhỏ, nhiều xe cộ bị
hư hại và hàng trăm thường dân vô tội thiệt mạng, hay bị thương. Dân chúng kinh
hoàng, bỏ chạy tán loạn kắp nơi. Nhiều chiếc xe bỏ trống, những chìéc khác cố tình
chạy thoát thân cán lên thường dân, đa số đàn bà trẻ em. K giả Nguyễn Tú diễn tả
cuộc tàn sát “Tiếng gầm thét, xé gió đạn pháo binh, tiếng súng tiểu liên, tiếng
than khóc của người sắp chết, người bị thương, trẻ em hòa nhập lại như tiếng kêu
gào từ dưới điạ ngục”
Đúng
5:00 giờ chiều ngày 18 tháng Ba, tiểu đoàn 1 và 2 trung đoàn 48 tấn công vào thị
trấn Cheo Reo. Tiểu đoàn 2 tấn công bộ chỉ huy tiểu khu Phú Bổn, tiểu đoàn 1 đánh
từ hướng bắc xuống, chiếm doanh trại lính Điạ Phương Quân. Mặc dầu, một số Biệt
Động Quân còn kẹt lại lập thành những ổ kháng cự nhỏ, đến nửa đêm quân đội Bắc
Việt hoàn toàn làm chủ thành phố. Chỉ có một số ít chiến xa, liên đoàn 7 Biệt Động
Quân đi thoát.
Khi
địch quân bắt đầu trận tấn công, Tướng Phú lập tức cho trực thăng đi đón Đại Tá
Lý và Tướng Tất. Ông ta ra lệnh cho Đại Tá Đồng ở lại chỉ
huy đoàn quân trìệt thoái, đánh xuyên qua các nút chặn bằng mọi giá. Khi Tướng
Tất và Đại Tá Lý được trực thăng đưa đi, Đại Tá Đồng cay đắng, gom số chiến xa
còn lại và những đơn vị Biệt Động Quân hiện diện. Sáng sớm ngày 19 tháng Ba, ông
ta ra lệnh mở trận phản công cuối cùng. Biệt Động Quân xuyên thủng vòng vây của
trung đoàn 64, nhưng thiêt giáp không đi theo được. Cuối cùng, Tướng Phú cho lệnh
rút lui bỏ lại chiến cụ nặng, xe cộ. Đến 1:00 giờ chiều ngày 19 tháng Ba, trung
đoàn 64 thanh toán các ổ kháng cự còn lại của BĐQ và Thiết Giáp trong thung lũng
Cheo Reo. Trong vòng hai ngày kế tiếp, không quân VNCH được lệnh bắn phá những
chiến cụ, xe cộ bị bỏ lại trong khu vực Cheo Reo. Đại Tá Đồng đi thoát, ông ta
bị bắt hôm 26 tháng Ba trong tỉnh Phú Yên, và bị đưa vào trại cải tạo 12 năm.
Sư
đoàn 320 Bắc Việt tuyên bố, sau ba ngày chiến đấu đã loại khỏi vòng chiến 750
chiến sĩ VNCH, bắt sống 5,590 quân nhân trong số có 512 sĩ quan. Một con số khác
7,225 binh sĩ “tự giác ra đầu hàng” nâng tổng số lên 13,570 người. Theo Tướng Đặng
Vũ Hiệp, Chính Ủy bộ tư lệnh Mặt Trận B-3, khoảng 20,000 thường dân kẹt lại
trong thung lũng Cheo Reo, được cho ăn uống tử tế và cho xe đưa trở lại Pleiku,
Kontum. Chỉ có một phần ba số chiến xa lữ đoàn 2 Kỵ Binh của Đại Tá Đồng về đến
Cung Sơn, đa số do liên đoàn 7 Biệt Động Quân đánh xuyên qua đèo Tuna. Ngoài
Thiết Giáp, số tổn tất của Biệt Động Quân cũng lên rất cao. Các liên đoàn: 4,
22,
23 và 25 bị tổn thất nặng (xóa sổ) (liên đoàn 4 BĐQ được tái lập vì là đơn vị tổng
trừ bị. vđh). Lữ đoàn 2 Kỵ Binh cùng với Pháo Binh quân đoàn II trở thành bất
khiển dụng, không còn khả năng tác chiến. Các đơn vị yểm trợ quân đoàn II cũng
tan rã. Tổn thất cao nhất trong suốt cuộc chiến cho đến thời điểm đó.
Dallas,
01/16/2020
vđh