Wednesday, July 11, 2012

Luôn nhớ đến các phi công Việt Nam thuộc Phi Đoàn 219 Kingbee với tấm lòng kính trọng và mang ơn





Hai Bài Viết Của Nhà Báo John Stryker
Meyer
Nguyễn Văn Phúc dịch
Lời nói
đầu:
Đây
là hai bài viết của nhà báo John Stryker Meyer đã được đăng trên báo North
County Times. Ông nguyên là quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, đến Việt Nam
năm 1968 và phục vụ cho MACV-SOG. Ông đóng trong căn cứ FOB 1, Phú Bài, Huế,
chiến đấu cho chiến tranh bí mật của chính quyền Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt
Nam. Các toán LLĐB hay còn gọi là Green Beret gồm nhiều toán viên Việt Mỹ, nhảy
toán cho các công tác đặc biệt bên đất Miên, Lào hay Bắc Việt Nam.

Ông
cũng là tác giả hai quyển sách Across the Fence: The Secret War in Vietnam và On
the Ground: The Secret War in Vietnam (đồng tác giả với John E. Peters) Nhận
thấy hai bài viết trên báo cho thấy ông luôn nhớ đến các bạn người Việt trong
toán Idaho với ông và ông cũng nhắc đến tên các phi công Việt Nam. Người dịch
xin mạo muội trích vài dòng trong sách Across the Fence của ông để cho thấy
ngoài tấm lòng yêu mến các người bạn Việt cùng toán,
ông cũng luôn nhớ đến các phi công Việt Nam thuộc
Phi Đoàn 219 Kingbee với tấm lòng kính trọng và mang ơn.
Hãy đọc một đoạn
ngắn ông viết về Đại Uý Thịnh trong một chuyến công tác bên Lào:
Trong thời điểm của những phút giây điên cuồng đó, tôi
nhìn lên viên phi công trực thăng, Đại Uý Thịnh. Ông ở trên tất cả cái sự điên
khùng ở bên dưới, thật là bình tỉnh và tự tin trong lúc chiếc trực thăng của ông
bị đạn của địch bắn trúng nhiều chỗ. Cái thái độ điềm tĩnh khác thường của ông
lại quá tương phản với adrenaline đang chạy ào trong cơ thể chúng tôi và cái
hành vi điên cuồng bên dưới của hai phía đang cố gắng giết nhau. Chúng tôi đã
chiến đấu trong nhiều giờ. Chúng tôi đã đổ mồ hôi, quá dơ dáy và bị kiệt sức.
Vậy mà trên kia, trên chiếc trực thăng, Đại Uý Thịnh ngồi yên, trầm tĩnh như cơn
gió lạnh trên rặng núi Rocky Mountain, làm cho thấy như đây chỉ là một chuyến đi
du ngoạn và như thể là ông đã nói, “Không hề gì, mấy chú. Tôi có cả nguyên ngày
mà. Mấy chú cứ từ từ. Sau khi mấy chú an toàn ngồi vào ghế, các cô tiếp viên
hàng không sẽ mang bia đến cho mấy chú.” Nhìn Đại Uý Thịnh trong giây phút đó
tạo cho tôi cái ấn tượng tinh thần mà tôi sẽ mang theo suốt đời. Thật sự là tôi
sẽ không bao giờ hiểu được bằng cánh nào mà một người đàn ông có thể ngồi im,
vững vàng dưới sự bắn phá quá dữ dội của quân địch, mà vẫn điều khiển được chiếc
trực thăng.
Gặp lại Đại Uý Thịnh hai
ngày sau chuyến công tác:
Một hay hai ngày sau cuộc triệt xuất, Đại Uý Thịnh
và phi hành đoàn của ông bước vào câu lạc bộ trại. Tôi vào tìm ông và nói thêm
một lời cảm ơn. Tôi mua nước uống cho toàn thể các phi công và các nhân viên phi
hành đoàn. Nói chuyện qua một thông dịch viên, Đại Uý Thịnh nói chiếc Kingbee mà
ông bay bốc chúng tôi ra khỏi Echo Four bị các vũ khí của quân địch bắn thủng 48
lỗ. Ngồi trong bar, Đại Uý Thịnh vẫn điềm tĩnh và trên tất cả sự huyên náo, xung
đột trong đời thường, giống như ông đã trầm tỉnh trong ngày 7 tháng Mười vậy.
Ông nói một viên đạn làm thủng một lỗ to bằng trái banh baseball vào một trong
mấy cánh quạt trực thăng. Tôi hỏi ông bằng cách nào mà ông vẫn để trực thăng bay
lơ lững trong thời gian quá lâu. Ông cho tôi biết khi ông điều khiển trực thăng,
ông chỉ nghĩ đến bay bỗng, không việc gì khác, không đạn địch, thời tiết hay tất
cả các việc gì khác, chỉ bay bỗng thôi.

“Nếu là lúc tôi phải chết, tôi
chết. Bữa hôm ấy không phải là ngày mà tôi phải chết.”
Chapter Seven, The Last Bullet, Across the
Fence

Và ông viết về một chuyến công tác khác, cả toán mong chờ chiếc
Kingbee của Đại Uý Tường, vì toán bị lính Bắc Việt dùng hỏa công đốt cháy họ.
Lửa, khói bao trùm bãi triệt xuất, ông đã nghĩ là trực thăng sẽ không đáp xuống
được:
Khi Đại Uý Tường bay chiếc trực thăng xuống vách núi, thẳng về phía
chúng tôi, ông đã biết rõ chúng tôi đang ở ngay đâu. Khói quá dầy đặt, làm cho
ông khó trông thấy được bãi triệt xuất. Trông giống như chúng tôi đang bị nhốt
kín trong một đoạn của Twilight Zone, với khói lửa đang tràn nhanh lên núi, cùng
với quân địch bắn vào chúng tôi, và thấy được sự cứu giúp gần kề, nhưng lại quá
tầm tay, không vói tay nắm bắt được. Khi chiếc trực thăng cũ kỹ Sikorsky còn
cách bãi đáp khoảng 75 feet và đang tiến thẳng xuống chúng tôi, theo tôi, hình
như cánh quạt trực thăng quay quá chậm. Trong một phút ngắn, tôi nghĩ chiếc trực
thăng sẽ rời khỏi bãi đáp vì khói bao phủ dầy đặc quanh bãi đáp. Tim tôi ngừng
đập. Nếu ông rời bỏ chúng tôi, chúng tôi chết chắc. Một vài phút nay trở thành
một vài giờ. Tầm nhìn của tôi trở nên rõ ràng hơn bất cứ lúc nào, tôi thấy rõ
khói, lửa, tiếng nổ lách tách và tiếng súng nổ của quân địch. Tôi đứng ngay sát
phía tây phòng tuyến, vẫy tấm panel màu lên bầu trời, cố gắng cho phi công thấy
nó. Chiếc H-34 vẫn tiếp tục xuống thấp, và bay rất chậm. Tôi chỉ nhìn thấy cái
bụng của chiếc trực thăng, với cái đầu khệnh khạng đưa qua phải rồi qua trái,
tiếp tục xuống thấp trông giống như con bọ ngựa khổng lồ. Cánh quạt trực thăng
xoay quanh thổi gió ào vào chúng tôi. Cuối cùng, cái mũi trực thăng hướng về
phía trái và tôi có thể nhìn thấy Đại Uý Tường. Nhìn thấy mặt ông, nhìn thấy ông
ngồi điềm tĩnh trong chiếc ghế phi công, làm cho lòng tự tin của tôi lên cao
hơn. Chúng tôi chắc chắn thoát nạn…

… Đại Uý Tường bay về Quảng Trị trước
vì trực thăng gần hết xăng. Chúng tôi trở về Phú Bài khi bóng đêm sắp sửa tràn
về. Cũng giống như trước đây, Đại Uý Tường cho phép tôi ngồi trên chiếc ghế của
phi công phụ cho phần cuối của chuyến bay. Tôi hỏi Đại Uý Tường nếu ông ta đã
quá mệt mõi khi phải kéo toán Idaho ra khỏi những nơi luôn luôn “nóng”. “Không
hề chi,” ông nói. “Quá nhiều khói, nhưng không nhằm nhò gì. Bây giờ Kingbee bay
về nhà. Ngày mai, chúng ta bay tiếp?” Tôi nói cho ông biết tôi có thể nghĩ ngày
mai. Ông nói Kingbee sẽ bay, chắc chắn vậy. Kingbee không bao giờ nghĩ ngơi. Khi
chúng tôi đáp xuống Phú Bài, ông chúc tôi Giáng Sinh an lành nhưng từ chối việc
tôi mời ông uống với tôi ly nước trong câu lạc bộ. Gia đình ông đang chờ ông ở
Đà Nẵng, chỗ thường trú của Phi Đoàn 219 Kingbee, nằm trong phi trường Đà Nẵng.
Buổi tối, ngay sau chuyến công tác, ông
gặp cơn ác mộng, thấy viên phi công khác, một trung uý trẻ xuống cứu toán. Viên
trung uý này không có được sự dũng cảm và kinh nghiệm của các phi công như Đại
Uý Thịnh, Tường; Trung Uý Trọng, Trung. Trong một chuyến công tác trước đây của
một toán thám sát khác, viên trung uý này đã không mang được phân nửa toán sau
khi Đại Uý Thịnh bốc được nửa toán. Nhưng Đại Uý Thịnh đã bay vòng lại, bốc được
nửa toán còn lại. Trong cơn mơ, ông trông thấy viên trung uý này xuống cứu toán
nhưng ông la to ông muốn phải là Đại Uý Tường. Cơn ác mộng này, tuy xảy ra không
đều đặn, nhưng luôn theo ông trong hơn hai mươi năm:
Cái mà tôi không hề biết
là cơn ác mộng của đêm Noel 1968, lâu lâu lại ám ảnh tôi cho suốt 25 năm. Một
thời gian sau, tôi đã có thể ngồi thẳng lưng, ra mồ hôi với nỗi lo sợ khi cơn ác
mộng đến. Cũng đã hơn 10 năm từ sau lần ác mộng cuối. Nhưng mỗi khi Noel đến, ác
mộng hay không ác mộng, tôi luôn dành ít phút giây nghĩ đến lòng dũng cảm của
Đại Uý Tường. “Không hề chi, Kingbee không bao giờ nghĩ ngơi.”
Chapter Thirteen, Captain Courageous, Across the
Fence
Haunting Memories of Brave Comrades

John Stryker Meyer
North
County Times
April 30, 2000

Khi tôi chết, nếu Thượng Đế cho tôi một ít
giây phút để tôi suy nghĩ lại một vài sự việc trước khi tôi thở hơi thở cuối
cùng, những ý nghĩ đầu tiên của tôi sẽ không phải cho những người thân yêu,
không phải cho đám con tôi. Tôi sẽ nghĩ đến và cảm ơn Thượng Đế đã ban cho tôi
Sáu, Hiệp, Phước, Tuấn, Hùng, Sơn, Quang, Châu, Cầu và Minh. Hai Đại Uý Thịnh và
Tường, cùng hai Trung Uý Trung và Trọng sẽ luôn ngự trị trong tâm tưởng tôi. Sau
đó, tôi sẽ nghĩ đến người vợ yêu dấu, những đứa con tài hoa và các bằng hữu quí
mến của tôi.

Tại sao lại là những người đàn ông Việt Nam trước những
người thân của tôi?

Không có lòng dũng cảm, kiên cường, không hề biết sợ
hãi của những chiến sĩ ấy trong cuộc chiến tranh bí mật của Hoa Kỳ tại Đông Nam
Châu Á, tôi sẽ không bao giờ trở về được Hoa Kỳ.

Hôm nay, tưởng niệm 25
năm ngày mất Sài Gòn, tôi sẽ dành một phút để chào kính những người dũng sĩ,
những người đàn ông mà hầu hết những người Hoa Kỳ sẽ không bao giờ biết đến,
tính luôn cả hơn ba triệu người lính Hoa kỳ đã được gởi đến Nam Việt Nam trong
cuộc chiến dài và tốn kém nhất của Hoa Kỳ.

Có quá nhiều người không tôn
trọng hay thân chào những người Việt đã chiến đấu tại Việt Nam. Lý do là vì quốc
gia của chúng ta đã không hướng dẫn cho họ biết về người Việt, phong tục, tập
quán và về cái đất nước mà chính quyền đã gởi chúng ta đến. Là những người lính
Green Beret, chúng tôi đã chiến đấu bên cạnh họ, vui đùa với họ và biết thêm về
gia đình, những giấc mơ, hy vọng và những nỗi lo âu của họ.

Nhóm đầu là
các toán viên của toán Idaho, toán thám sát cho các công tác bí mật trong đất
Miên, Lào và Bắc Việt nằm dưới sự điều động của Military Assitance Command
Vietnam – SOG. Các đơn vị của Green Berets, Navy Seals, và các toán trinh sát
của TQLC HK cung cấp và điều khiển nhiều cuộc hành quân bí mật khắp suốt Nam
Việt Nam.

Tôi gia nhập toán Idaho vào tháng Năm năm 1968 sau khi sáu toán
viên của toán biến mất trong một khu vực của một mục tiêu bên đất Lào. Ba người
lính Mũ Xanh Hoa Kỳ và ba người lính “đánh thuê” Việt Nam sẽ không bao giờ được
nghe đến và vẫn còn nằm trong danh sách mất tích cho đến ngày hôm nay. Năm 1968,
toán Idaho hành quân bên ngoài Phú Bài, cách phía nam Huế mười dặm. Trong tháng
Năm có ba mươi toán thám sát trong căn cứ. Vào tháng Mười Một, chỉ còn duy nhất
toán Idaho là toán còn đi hành quân. Quân địch tại Lào, Miên và Bắc Việt là
những tên lính được huấn luyện kỹ càng, trang bị đầy đủ và rất liều
mạng.

Hai Đại Uý Tường, Thịnh và hai Trung Uý Trung, Trọng là những viên
phi công bay trực thăng Sikorsky H-34 của Phi Đoàn 219 cho SOG. Hết lúc này đến
lúc khác, họ bay những chiếc trực thăng cũ kỹ H-34 mà chúng tôi gọi là Kingbee
vào những bãi đáp, những nơi mà quân địch cố gắng bắn rơi họ từ trên không
trung.

Trong nhiều tháng trong năm 1968, các chiếc Kingbee là những
chiếc trực thăng mang các toán SOG bay qua biên giới, vào sâu trong nội địa của
quân địch. Tại đất Lào, CIA đoán có khoảng từ 30,000 đến 40,000 quân lính Bắc
Việt lo nhiệm vụ bảo vệ con đường mòn Hồ Chí Minh, con đường vận chuyển quân
dụng và vũ khí từ Bắc vào Nam Việt Nam và – đánh nhau với các toán
SOG.

Trong 17 tháng ở trong toán Idaho, chúng tôi luôn luôn rời mục tiêu
với sự bắn phá dữ dội của quân lính Bắc Việt. Đường về lại căn cứ luôn là trên
những chiếc Kingbee. Và, mỗi lần chúng tôi cần họ, họ luôn đến, không thèm đếm
xỉa tới đạn địch bắn ác liệt đến cỡ nào. Rất nhiều người lính Mũ Xanh còn sống
sót đến ngày hôm nay là nhờ vào cái tài bay bỗng không thể tưởng tượng được của
các viên phi công Kingbee Việt Nam. Và nếu không có các toán viên Việt và Nùng,
sẽ có nhiều hơn 161 người lính Mũ Xanh hy sinh cho các công tác của
SOG.

Sáu là trưởng toán người Việt của toán Idaho. Khi tôi đặt chân đến
Phú Bài, Sáu đã chiến đấu với Lực Lượng Đặc Biệt gần năm năm. Chỉ cân nặng 100
cân anh, quá gầy. Sáu có một giác quan thứ sáu rất phi thường: anh có thể “ngữi”
được quân địch. Trong rừng, anh di chuyển nhẹ nhàng, kín đáo, luôn chỉ trích các
bạn đồng nhiệm Hoa Kỳ, khi cần. Hiệp là thông dịch viên cho toán, thỉnh thoảng,
anh chỉnh sửa văn phạm tiếng Anh cho các người lính Hoa Kỳ, anh nói thông thạo
cả tiếng Pháp, Việt và một ít tiếng Tàu. Phước, Châu, Sơn và Hùng tình nguyện
đăng lính Lực Lượng Đặc Biệt khi họ mới 15, 16 tuổi. Sau hàng trăm giờ huấn
luyện, tuổi của họ không còn là vấn đề vì họ chiến đấu rất ngon lành trong chiến
trận.

Vào ngày 7 tháng Mười năm 1968, sau khi toán Idaho cố gắng thoát
khỏi các tên truy lùng, toán bị quân lính Bắc Việt để súng vào thế tự động, tấn
công. Sáu đã lên tiếng báo động là bọn chúng đang đến gần. Tuy các người lính
Hoa Kỳ không nghe thấy gì, nhưng Sáu, Phước, Hiệp và Don Wolken luôn cảnh giác,
với vũ khí để tự động, sẵn sàng khai hỏa.

Các giây phút đầu tiên trong
những lúc đánh nhau rất là quan trọng. Những cây súng tiểu liên chúng tôi mang
theo bắn 20 viên đạn trong vòng một giây rưỡi. Sáu, Phước và Hiệp thay băng đạn
mới, bắn đuổi quân lính Bắc Việt trở xuống đồi. Chúng tôi giành được ưu thế về
hỏa lực, nhưng quân Bắc Việt luôn tiến đến chúng tôi. Về sau, chúng bắn vào
chúng tôi từ đằng sau các thân xác chết chất đống lại của bọn chúng. Chúng tiến
đánh chúng tôi từ hai giờ trưa tới khi trời chập tối. Hết đợt tấn công này đến
đợt tấn công khác, cố gắng tràn ngập vị trí chúng tôi. Chúng tôi được sự yểm trợ
của Không Quân Hoa Kỳ từ các chiếc Phantom, Skyraider và Gunship luôn bỏ bom,
bom cluster, bom napalm, và các đợt bắn phá bằng đạn liên và súng cà nông khác.
Đó là lần đầu tiên tôi nhớ lại thây người cháy khét. Đến khi trời chạng vạng
tối, chúng tôi chỉ còn lại ít đạn, lựu đạn và một ít đạn phóng lựu. Đại Uý Thịnh
bay chiếc H-34 vào một cái gò cao nhỏ bên cạnh vị trí chúng tôi, điều khiển trực
thăng bay lơ lững trên một đám cỏ voi - cỏ voi dầy và cao hơn 12 feet. Bởi vì
cái đám cỏ quá dầy và quân Bắc Việt cố gắng bám sát lưng, phải cần nhiều phút để
đến được chiếc Kingbee. Khi tôi đến được dưới trực thăng, tôi nhìn lên Đại Uý
Thịnh, đang ngồi trên ấy, điềm tỉnh như cơn gió lạnh của rặng núi Rocky Mountain
vào mùa Xuân, và ông mỉm cười. Cuối cùng, chúng tôi lên được trực thăng, và ông
ta kéo chúng tôi ra khỏi nơi ấy. Sáu, Hiệp, Phước và tôi bắn hết những băng đạn
cuối cùng, và thảy hết những trái lựu đạn cuối lúc chúng tôi rời khỏi vùng, dưới
hỏa lực ác liệt của quân địch. Chỉ trong vòng vài phút, chúng tôi bay ở cao độ
4,000 feet, hướng về Phú Bài. Chúng tôi bình an vô sự. Nhưng, chiếc Kingbee bị
lựu đạn và đạn địch làm thủng 48 lỗ ngay hai bên hông trực thăng và cánh quạt.
Qua ngày hôm sau, người lính Hoa Kỳ vừa gia nhập toán được một thời gian ngắn,
bỏ cuộc. Sáu, Hiệp và Phước dùng buổi cơm tối và tôi sắp xếp cho Sáu và Hiệp
được phép về với gia đình họ ngay tối hôm ấy.

Câu chuyện trên hé lộ ra
hàng trăm diễn biến về lịch sử của SOG. Tôi luôn mang trong người một nỗi ám
ảnh, mặc cảm có tội vì đã bỏ rơi các người bạn Việt thân quí của tôi tại Nam
Việt Nam.

John Stryker Meyer, staff writer, North County Times.
Served
in Special Forces from 1968-1970.

& & &

Thirty Years
Later, War Story Has A Happy Ending

John Stryker Meyer
North County
Times
11-25-01

Tôi biết Nguyễn Công Hiệp có mặt trên chuyến bay lúc
chiếc máy bay của hảng Continental Airlines đang hạ cánh, và đột nhiên, tôi cảm
thấy tôi không còn đứng ở phi trường John Wayne tại Orange County; tôi đang trở
ngược ở bên đất Lào trong năm 1968, với quân lính Bắc Việt vây quanh.

Vào
ngày 7 tháng Mười năm 1968, toán thám sát sáu người của LLĐB tạm nghĩ chân trên
đầu một ngọn đồi trong một khu rừng bên đất Lào. Khi tôi mở một hộp trái cây
cũng là lúc Hiệp và Sáu nổ súng vào một đám đông quân Bắc Việt đang trèo lên đồi
để giết chúng tôi. Lưng tôi đang ở đối diện với quân Bắc Việt khi Sáu, Hiệp và
ba toán viên còn lại của toán ST Idaho khai hỏa, với những tiếng nổ dữ dội của
súng để ở vị thế tự động.

Lúc tôi nhìn chiếc phi cơ của hảng Continental
chạy vào phi đạo, những phút giây của 33 năm về trước, vẫn còn nóng trong ký ức
như thể mới như ngày hôm qua, hiện về; Khi Hiệp và Sáu bảo vệ lưng tôi, bắn đuổi
quân Bắc Việt trở ngược vào khu rừng, xuống trở lại đồi, lúc chúng tôi chiến đấu
bên nhau cho cuộc chiến bí mật của Hoa Kỳ tại Đông Nam Châu Á. Tôi vẫn ngữi được
mùi hăng của khói súng, nỗi sợ và adrenaline bơm dồn dập trong những mạch máu
của trận đánh đó, và những giờ phút tiếp nối lúc quân Bắc Việt bắn vào chúng tôi
từ sau cái đống thây chết của các đồng chí của bọn chúng. Đó cũng là lần đầu
tiên tôi ngữi thây người cháy khét bởi bom napalm.

Năm 1970 là lần cuối
cùng tôi nói chuyện với Hiệp, tại buổi tiệc chia tay của tôi với những người
lính trong toán Idaho. Là người thông dịch viên cho toán Idaho, Hiệp và tôi là
hai người còn đứng vững sau buổi tiệc thật dài, ầm ỉ và đầy xúc động đó. Anh say
và té ngã xuống cát, tôi kéo anh dậy, mang anh vào giường trong căn phòng của
toán. Tôi rời căn cứ trước khi trời sáng và không bao giờ gặp lại
anh.

SUM HỢP

Một phần tư thế kỷ sau, vào một buổi tối thứ Năm gần
đây, tôi cảm thấy bồn chồn và kích động. Một người cháu của Hiệp nhìn thấy hình
anh trên ti vi, trong một phim tài liệu của History Channel. Anh ta liên lạc với
tôi. Tôi gọi cho Hiệp, và bây giờ, tôi đang chờ, dành cho anh một sự ngạc nhiên
ở phi trường.

Tôi nhận ra anh cho dầu anh không còn đeo kiếng mát mà anh
luôn luôn đeo ở Đông Nam Châu Á. Từ đám đông, tôi tiến lại gần anh. “Này, anh
thông dịch viên số một, chào mừng đã đến Nam Cali.”

“John Meyer! Anh đó
à?” Và không để trễ một giây “Anh có nhiều tóc bạc hơn là lúc chúng ta ở Phú
Bài.” Chúng tôi bắt tay nhau, rồi ôm chặt nhau.

“Hiệp, tôi rất vui sướng
biết anh vẫn còn sống. Tôi luôn sợ cái sự xấu kia.”

“Meyer, anh có thể
tưởng tượng được chúng ta vẫn còn sống? Thật là vui mừng gặp lại anh sau nhiều
năm xa cách.”

Lúc cái đám đông rời chúng tôi, chúng tôi bắt tay nhau một
lần nữa, không nói một lời nào. Tôi ôm chặt anh lần nữa, vui sướng vì anh vẫn
còn sống. Hiệp lại hỏi tiếp, “Anh có thể tưởng tượng được là chúng ta vẫn còn
sống?”

Chúng tôi hỏi nhau câu hỏi đó nhiều lần trong một buổi cuối tuần
vừa qua, khi tôi và Hiệp đến vùng Little Saigon, dùng thức ăn Việt Nam, và dự lễ
cưới với gia đình anh. Ngày Chủ Nhật, tại nhà tôi ở Oceanside, vợ tôi làm cơm
tối thiết đãi một vài người bạn và vài người thân của anh.

Trong thời
gian gặp gỡ ngắn ấy, chúng tôi nói tới nói lui những câu chuyện từ những ngày
còn trong cuộc chiến bí mật cho đến cuộc sống của chúng tôi từ sau năm 1970 và
về gia đình. Chúng tôi nhớ lại lúc tôi, Sáu và Hiệp mới biết nhau vào tháng Năm
tại FOB 1, Phú Bài, Việt Nam. Tôi vừa mới xong phần huấn luyện về LLĐB trong
nước và tình nguyện gia nhập cho cuộc chiến bí mật, về lính Mũ Xanh (Green
Berets) hoạt động cho những công tác bí mật, sâu trong nội địa Lào, Miên và Bắc
Việt cùng với những người lính bản xứ Việt Nam. Những người đàn ông Việt Nam như
Sáu và Hiệp tình nguyện cho những nhiệm vụ nguy hiểm nhất trong Đông Nam Châu Á,
với các toán thám sát sáu hay tám người sâu trong những căn cứ của quân địch.
Không có những sự giúp sức của Bộ Binh, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến, không có
cả pháo yểm. Chúng tôi chỉ có Không Quân Hoa Kỳ, những phi hành đoàn trực thăng
dũng cảm của Nam Việt Nam, của Bộ Binh HK và các trực thăng hỏa lực của TQLC
HK.

Trong thời gian ấy, Hiệp và Sáu cân nặng 95 cân anh, quá nhẹ. Hai anh
đã có hơn hai năm kinh nghiệm cho những công tác chết người đó. Tôi chỉ là anh
lính mới ra lò. Hiệp là toán viên quan trọng nhất của toán, là thông dịch viên.
Tôi không nói được tiếng Việt, chỉ trừ một vài tiếng thô tục. Hiệp nói được ba
thứ tiếng và hiểu được tiếng địa phương của người Bắc. Tôi được đưa về toán ST
Idaho vì cả toán bị biến mất vào tháng Năm năm 1968 - bốn người lính Việt và hai
lính Mũ Xanh Hoa Kỳ, sẽ không bao giờ nghe thấy họ nữa. Sáu là trưởng toán người
Việt và tôi là hiệu thính viên, mang máy cho toán. Vào tháng Mười, tôi lên nắm
trưởng toán, bên phía Hoa Kỳ.

Chúng tôi nhảy nhiều công tác – thêm một
mục tiêu ngay ngày Thanksgiving ở Miên, và một công tác đêm Noel bên đất Lào –
cho đến cuối tháng Tư năm 1969, tôi trở về Hoa Kỳ. Vào tháng Mười, tôi trở lại
với toán Idaho và chúng tôi nhảy thêm nhiều chuyến nữa, huấn luyện để bắt cóc
quân địch, nghe lén điện thoại và chôn các cục sensor của Không Quân vào các khu
vực của quân Bắc Việt.

Có đôi khi, chúng tôi nhảy xuống mục tiêu từ trên
trực thăng còn lơ lững bay. Chúng tôi luôn rời khỏi mục tiêu dưới sự bắn phá của
quân địch. Chỉ một câu hỏi duy nhất là có bao nhiêu súng đạn và súng phòng không
của địch và chúng tôi có được bao nhiêu viên đạn còn lại để bắn trả trong những
giây phút điên cuồng chờ đợi trực thăng.

Vào tháng Tư năm 1970, tôi từ
giã và sẽ không bao giờ trở lại Việt Nam, sau cái buổi tiệc mà Hiệp làm thông
dịch và anh bị say mèn đó. Các người lính Hoa Kỳ trong chuyến bay hò hét, cười
đùa vì họ đang trở về quê hương. Tôi lại ngồi buồn rầu. Tôi bị dằng co vì, tôi
ngạc nhiên và vui sướng vì tôi vẫn còn sống; và, tôi lo lắng cho Sáu, Hiệp và
các người lính Việt dũng cảm trong toán ST Idaho.

TRỐN THOÁT

Hiệp
rời bỏ Sài Gòn trong một trong những chuyến bay cuối của ngày 30 tháng Tư năm
1975, một người thân thu xếp cho Hiệp lên chiếc máy bay quân sự C-130, ở phi
trường Tân Sơn Nhứt, ngày mà Hiệp gọi là “Tháng Tư Đen”.

Khi anh tới phi
trường, anh nói, anh trông thấy một cảnh tưởng hỗn loạn, ồn ào. Các pháo thủ
cộng sản nả đạn vào phi trường trong lúc hàng trăm người Việt đang điên cuồng cố
gắng lên chiếc máy bay. Lúc Hiệp đến được máy bay, cái cửa sau đã kéo lên cao
khỏi mặt đất vài feet.

“Tôi quá tuyện vọng” Hiệp nhớ lại. “Tôi thảy đứa
con út vào một người lạ mặt trên máy bay.” Anh quăng đứa con thứ hai vào một
người lạ mặt khác. Cánh cửa sau đang nâng lên cao làm anh phải nhấc vợ anh lên.
Trong cái lúc ồn ào đó, “Tôi nhận thức được người ta nhảy lên lưng tôi, dùng tôi
làm thang để leo lên máy bay,” Hiệp nói.

Anh ngã xuống đường bay, đổ ầm
xuống dưới cái sức nặng của các thân người tuyệt vọng ấy.

“Cho đến ngày
hôm nay, tôi không biết bằng cánh nào, tôi đứng dậy được,” Hiệp nói “Đó là những
giây phút tôi sẽ không bao giờ quên. Khi máy bay bắt đầu chạy tôi nghĩ tôi sẽ
không bao giờ trông thấy vợ con tôi được nữa… Tôi biết là bọn Bắc Việt biết tôi
chiến đấu trong LLĐB, biết chúng nó sẽ đến bắt tôi. Tôi nghĩ tôi sẽ chết chắc.


Rồi, một người nào đó bên trong máy bay, cúi người xuống, nắm áo Hiệp và
kéo anh vào máy bay lúc máy bay cất cánh rời khỏi phi đạo. “Cho tới ngày hôm
nay, tôi vẫn không biết ai làm việc ấy, nhưng, tôi luôn mang ơn anh ta suốt
đời.”

Gia đình Hiệp rời bỏ Sài Gòn chỉ với quần áo trên thân, không tiền,
không nữ trang, không của gia truyền, không có gì cả.

“Chúng tôi đến Mỹ
với hai bàn tay trắng,” Hiệp cho biết. “Những người Mỹ chúng tôi gặp trên đường
đời giúp đỡ, vực chúng tôi dậy… Dân chúng ở xứ này không biết lo lắng là gì. Họ
không hề biết khó như thế nào để có được bữa ăn nóng trên bàn mỗi tối… Tôi rất
vui sướng được ở đây, có được tự do.”

Hai người con gái của Hiệp làm kế
toán tại Houston. Đứa con trai học computer tại Cambridge, Mass. Một đứa con
trai riêng khao khát được làm bác sĩ.

Vài ngày sau biến cố 9-11, tôi gọi
thăm hỏi Hiệp.

“Tôi đang bực mình đây. Tôi không thể tưởng tượng được bọn
chúng chơi nước Mỹ,” Hiệp nói. “Thiệt là buồn. Không hiểu bằng cách nào mà một
tên nào chơi được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”

Tôi nói, “Hiệp. Anh sẵn sàng
chưa?”

“Tụi mình đi Afghanistan?” anh nói, ”Trước tiên, tụi mình đến
thành phố Sài Gòn, rủ thêm Sáu và có thể kéo luôn cả Black (Lynne Black, cựu
toán viên toán ST Idaho) đang ở Hoa Kỳ, rồi chúng ta đi bắt cái thằng chó đẻ nào
đã làm việc đó.”

John Stryker Meyer

Sài Gòn nhỏ ngày 15 tháng Chín
2011
Nguyễn Văn Phúc





 Hoa Pham and John Stryker Meyer President Special Operations Association





Kingbee Captain Duong Ngoc Nhu and Loi Ho Nguyen Van Hiep toan Idaho





Team IDAHO John Stryker Meyer stand far left , Hiep front row far right with black hat





Kingbee 219 and STD member

3 comments:

  1. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete
    Replies
    1. This comment has been removed by the author.

      Delete
    2. trích => Vài ngày sau biến cố 9-11, tôi gọi thăm hỏi Hiệp.

      “Tôi đang bực mình đây. Tôi không thể tưởng tượng được bọn chúng chơi nước Mỹ,” Hiệp nói. “Thiệt là buồn. Không hiểu bằng cách nào mà một tên nào chơi được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
      -------------------------------------------
      STD_SOG
      Điều này thì coi lại => Ai đã bỏ trống Nhà Trắng cho đám ''terro..."xâm nhập vào, sau vụ scandal cô thư ký LS?!
      . '''(@_@)''' ;;(@_@);;
      .......\ o /........( o )...................
      . ki...ki, ki...ki....l'OO'k, l'OO'k !!!.
      .STD_SOG
      ......l'OO'k => OK ¯\_(ツ)_/¯ OK <= l'OO'k.......

      Delete