Monday, October 22, 2012

1942-1975-2012 Introduction









BLACK WALL at  SPECIAL OPERATIONS COMMAND Fort Bragg


















































Page 10- Page19


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P10


Sau này, Thiếu tá Norton nhớ lại: “Chúng tôi không thể đem trực thăng vào bốc họ ra được”. Do phải đem theo trang bị cùng xác chết biệt kích quân xấu số, toán Iowa lẩn tránh quân Bắc Việt truy lùng một cách chậm chạp. Quân Bắc Việt quyết định tách thành 2 cánh như cánh quạt và tiếp tục truy lùng toán biệt kích. Hai hôm sau, trời quang đãng, toán Iowa gọi 37 cuộc cho máy bay F105 đến oanh kích, rồi trực thăng H34 vào bốc toán Iowa ra khỏi vùng nguy hiểm.


21/09/1966. Thủy quân lục chiến Mỹ
Mục tiêu kế tiếp trong cuộc hành quân Shining Brass nằm cách mục tiêu trước chừng 10 dặm. Đó là một con đường lớn gần biên giới, nơi quân Bắc Việt chọn làm binh trạm, dự trữ vật chất cho những trận tấn công trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Vị trí này được đặt tên là A1. Mục tiêu tấn công nằm trong thung lũng, có cỏ tranh cao, rất dễ để lại dấu vết cho đối phương.

Ngày 20/11/1965, toán thám báo Alaska có 3 biệt kích quân Mỹ xâm nhập mục tiêu A1. Quân Bắc Việt báo động có biệt kích xâm nhập. Hai bên chơi trò mèo vờn chuột cả đêm. Toán Alaska phát hiện ra một hệ thống đường mòn cho xe đạp và đi bộ, xuất phát từ đường 165 bên Lào và dẫn đến nơi xuất hiện những toán tuần tiễu của đối phương đang truy lùng họ. Sau 3 ngày lẩn trốn, đến ngày thứ tư, toán biệt kích Alaska bị Quân đội Bắc Việt tìm ra.

Sau này, một trong số biệt kích quân sống sót nhớ lại: “Chúng tôi chạy hoài, chạy mãi trong nỗi sợ hãi”. Sau cùng toán Alaska quyết định chạy lên 1 ngọn đồi cao nhất, dùng máy truyền tin liên lạc yêu cầu bốc toán về. Quân Bắc Việt bao vây tứ phía. Trên đỉnh đồi là đám cỏ tranh cao hơn đầu người, họ liên lạc được với máy bay thám thính (FAC) và được biết những máy bay oanh kích cùng trực thăng cấp cứu đang trên đường đến mục tiêu. Quân Bắc Việt đốt đám cỏ tranh không cho máy bay tìm thấy toán biệt kích và để bắt sống toán Alaska. Đám biệt kích ráng chịu đựng khói không ra hàng. Mười phút sau, những chiếc F105 đến oanh kích không cho đối phương tiến lên đồi, rồi một chiếc H34 khẩn cấp đáp xuống giữa đám cháy, bốc toán Alaska ra. Trong mắt các biệt kích quân, những phi công của Phi đoàn 219 đã trở thành ân nhân cứu mạng họ.

Đầu tháng 12/1965, những toán thám báo Kansas và Idaho cũng từ trại Khâm Đức xuất phát xâm nhập đất Lào. Tiếp theo đến lượt toán Idaho cũng phải chịu cảnh vừa chạy, vừa tìm lối thoát thân.


Sau vụ đó, Đại tá Bull Simons quyết định đổi hướng xâm nhập. Ngày 11/12/1965, một đoàn 24 chiếc B52 lần đầu tiên thả 2.600 quả bom xuống lãnh thổ Lào, theo sự chỉ điểm của toán biệt kích Iowa.

Sau trận mưa bom này, Đại tá Bull Simons quyết định đổi hướng cuộc hành quân Shining Brass xuống phía nam Lào, giáp với cao nguyên Trung phần của miền Nam Việt Nam. Những toán thám báo từ sân bay Dakto, tiến hành thăm dò vùng lân cận đường 110E của Lào; tìm kiếm các căn cứ của đối phương cũng như hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn, tiến sâu vào lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại mục tiêu K1, toán thám báo Kansas mới xâm nhập đã chạm trán với đối phương, buộc phải phân tán. Hai biệt kích quân người Nùng bị mất tích. Toán Idaho nhảy vào cũng chạm trán đối phương, một biệt kích Mũ Nồi Xanh Mỹ bị thương, một biệt kích Nùng tử trận. Tính đến cuối năm 1965, có tất cả 8 chuyến xâm nhập lãnh thổ Lào thuộc chương trình hành quân Shining Brass. Sáu chuyến trong số đó phát hiện ra căn cứ, đường mòn hoặc kho tiếp vận của đối phương.


Trung bình sau mỗi chuyến xâm nhập khoảng 5, 6 ngày sau, các toán thám báo sẽ bay về Sài Gòn để báo cáo kết quả về chuyến xâm nhập với chỉ huy SOG. Những buổi tường trình có thể kéo dài nửa ngày hoặc nhiều ngày. Cuối cùng CIA cũng biết được giá trị của đường mòn Hồ Chí Minh ở tây Trường Sơn (trên đất Lào) trong cuộc chiến Việt Nam.

HÀNH QUÂN PRAIRIE FIRE

Trong tháng 3/1967, để giữ bí mật cho các hoạt động của Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG) trên đất Lào, cuộc hành quân Shining Brass đổi tên thành “Prairie Fire” (Cánh đồng lửa).

Prairie Fire cũng là mật hiệu khẩn cấp cho những toán viễn thám SOG bị đối phương phát giác và tấn công. Khi một chiếc máy bay thám thính biệt danh Covey nhận được mật hiệu “Prairie Fire Emergency”, Covey sẽ báo cáo về Sở chỉ huy Không yểm Mỹ và chỉ sau vài phút, những phi tuần của không quân, hải quân và thủy quân lục chiến sẽ làm thành một lưới lửa bảo vệ cho trực thăng vào bốc toán viễn thám đi.

Trong một cuộc hành quân, tình cờ trực thăng vũ trang bắn hỏa tiễn xuống một căn cứ của Quân đội Bắc Việt, trúng vào kho quân dụng, làm phát ra một tiếng nổ lớn. Một trung đội xung kích của SOG được gửi đến lục soát ngọn đồi phát ra tiếng nổ. Họ phát hiện ra kho lương thực rất lớn, gồm những bao gạo 100 kg giấu dưới những cây cao. Tất cả vào khoảng 250 tấn, đủ nuôi 1 sư đoàn Bắc Việt trong 6 tuần lễ. Người chỉ huy trưởng thứ 3 của SOG là Đại tá Singlaub rất hãnh diện về “thành tích” khám phá ra một kho lương thực lớn của đối phương trong cuộc chiến Việt Nam.



Giữa tháng 7, toán thám báo do Thượng sĩ Sam Almendariz, Robert Sullivan, Trung sĩ nhất Harry Brown cùng 5 biệt kích Nùng xâm nhập khu vực gần đường 922 của Lào, cách hướng tây thành phố Huế khoảng 60 dặm. Toán thám báo này bị phục kích, chạm trán với 1 nhóm săn biệt kích. Một lính Bắc Việt vật lộn với Sullivan, lấy được khẩu CAR 15 và bắn chết anh ta, còn Harry Brown bị thương ở vai; Almendariz cũng bị một binh sĩ khác bắn chết. Trung sĩ Brown và những biệt kích Nùng còn sống sót bỏ chạy để thoát thân. Sau đó, Brown tìm cách bắt liên lạc, báo tin cấp cứu.

Tại Khe Sanh, khi được thông báo, phi công Việt Nam thuộc Phi đoàn trực thăng 219 lập tức lên đường giải cứu toán thám báo. Mặc dù không có trực thăng vũ trang Mỹ bay theo yểm trợ, viên phi công người Việt với mật danh Cowboy vẫn lái chiếc H34 bay sát ngọn cây tìm toán thám báo. Họ phát hiện được Brown cùng vài biệt kích quân Nùng, nhưng vị trí toán thám báo không thể đáp xuống được. Trong khi đó Quân đội Bắc Việt vẫn ráo riết truy lùng toán biệt kích. Nhìn thấy chiếc H34, đối phương sử dụng mọi hỏa lực trong tay bắn chiếc H34, khiến viên phi công phải bỏ ý định tìm bãi đáp để bay về Khe Sanh.

Tại căn cứ Khe Sanh, sau khi tiếp thêm xăng, Cowboy xem qua chiếc máy bay cũ kỹ và nhận thấy dù bị ăn đạn nhưng vẫn còn bay được. Do lo lắng cho sinh mạng của phi hành đoàn, viên phi công cho phép phi công phụ cùng người xạ thủ đại liên ở lại căn cứ. Cowboy một mình bay đi giải cứu toán thám báo. Lần này hỏa lực đối phương bắn lên như mưa, trúng vào cổ viên phi công, nhưng cuối cùng anh ta cũng câu được Brown lên cùng với mấy biệt kích Nùng, đưa về căn cứ Khe Sanh.

Qua sự kiện trên, Quân đội Bắc Việt biết rằng biệt kích quân Sài Gòn đã xâm nhập, do thám và phá hoại vùng giải phóng, căn cứ binh trạm, đặc biệt là tuyến đường mòn Hồ Chí Minh của họ.



Để đề phòng, Quân đội Bắc Việt sử dụng Lữ đoàn Dù số 305. Lữ đoàn này tập hợp những quân nhân tinh nhuệ, được tuyển chọn kỹ lưỡng. CIA có thể không biết rằng một bộ phận của Lữ đoàn Dù này được sử dụng để chống lại biệt kích quân. Nhiệm vụ của họ là truy lùng và tiêu diệt những toán thám báo của SOG.

Điều này đã được kiểm chứng. Hai toán biệt kích bị tấn công ngay tại vị trí đóng quân đêm. Trường hợp thứ nhất, cả toán đều bị tiêu diệt. trường hợp thứ hai, theo báo, tất cả đều mất tích. Trong đó có Trung sĩ Gunther Wald, William Brown và Donald Shue. Qua các trận đụng độ cho thấy, đơn vị chống biệt kích của đối phương hoạt động trong khu vực nằm giữa Khe Sanh và Tchepon. Một tiểu đoàn khác hiện diện tại thung lũng A Sầu kéo dài 20 dặm về phía tây và một tiểu đoàn thứ ba tuần tiễu tại khu vực phía nam vương quốc Lào và bắc lãnh thổ Campuchia.

Toán thám báo Maine do Trung sĩ nhất David Baker làm trưởng toán, bao gồm toán phó là Trung sĩ Sherman Miller, hiệu thính viên là Trung sĩ Mike Buckland và 5 biệt kích quân người dân tộc thiểu số. Toán này xâm nhập vào căn cứ của đối phương, bị phát hiện và truy lùng. Bất ngờ, toán Maine chạm trán với 9 quân nhân Bắc Việt cùng với máy truyền tin đang trên đường đi tìm họ. Toán Maine nổ súng chớp nhoáng, rồi cắm đầu chạy xuống bên kia sườn đồi, bỏ lại phía sau tiếng súng AK bắn đuổi theo của đối phương. Một giờ sau, toán Maine được trực thăng bốc về căn cứ. Thật may mắn, chỉ có 2 biệt kích quân bị thương.

Trong một trường hợp khác, máy bay thám thính Covey đang bao vùng trên không phận phía nam Lào báo cáo: “Tôi nhận được tín hiệu khẩn cấp trên máy vô tuyến”. Một biệt kích quân Mỹ gào trên máy bộ đàm: “Xuống đem tôi ra”. Phi công yêu cầu anh ta bình tĩnh vì biết rằng biệt kích quân nọ bị lạc một mình, mất liên lạc với toán. Mặc dù, anh ta chưa biết lý do tại sao.

Toán viễn thám do Miguez làm trưởng toán có thêm Bill Pilton, Mike Glenn. Miguez là một cựu thủy quân lục chiến. Trong chuyến sang Việt Nam lần trước, anh ta từng tham gia cuộc hành quân Delta, do Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ đảm nhiệm. Lần này, khi xâm nhập lãnh thổ của đối phương, Miguez biết đã bị đối phương phát giác và truy lùng, tuy nhiên anh ta vẫn hy vọng lẩn tránh được. Đó là sự lầm lẫn đáng tiếc, và anh ta chẳng bao giờ còn cơ hội sửa chữa.


Cùng ngày, một trưởng toán khác, Trung sĩ nhất Fred Zabitosky được bốc ra từ một mục tiêu khác gần đó. Zabitosky đang ở trong căn cứ hành quân tiền phương Dakto thì nhận được lệnh thả thêm một toán cấp cứu Bright Light. Toán trưởng Bright Light vốn là một kẻ rất nhát. Anh ta đã nhầm lẫn tai hại khi tình nguyện về đơn vị SOG. Zabitosky luôn tìm mọi lý do để không tham gia vào các cuộc hành quân. Khi nhận lệnh, Zabitosky nổi nóng: “Thôi được! Để tôi đi cứu họ!”.

Tối hôm đó, Zabitosky nghe một câu chuyện rất lý thú do Glenn, một thành viên trong toán của Miguez kể lại: “Sáng hôm đó, Quân đội Bắc Việt bất ngờ hiện ra, toán biệt kích không bắn được lấy một phát súng”.

Tất cả đều bị bắt, trừ toán phó Pilton trốn thoát. Họ tha chết cho Glenn, và cố tình cho trực thăng vào bốc anh ta về để tay này kể lại: Viên sĩ quan Bắc Việt biết nói tiếng Anh, chỉ vào cái xác của Miguez, dặn Glenn về nói lại với quân biệt kích Mũ Nồi Xanh Mỹ rằng những gì diễn ra hôm nay, cũng đang đợi họ ở đất Lào!

Nhiều người không tin Glenn, cho rằng anh ta bịa đặt vì hèn nhát. Một Trung tá biệt kích Mỹ từ Đà Nẵng vào, ra lệnh đi tìm sự thật về toán thám báo của Miguez. Toán thám báo do Zabitosky làm trưởng toán đã tìm ra bãi thả toán của Miguez. Lần theo dấu vết khoảng 600 thước, đến một ngọn đồi, họ tìm thấy ba lô, những đồ trang bị bỏ lại của toán biệt kích lúc bị bắt. Xa hơn chút nữa họ trông thấy cây, khoảng đất bị súng phun lửa đốt cháy và xác chết mấy biệt kích quân người Thượng nằm rải rác. Thêm một ngày gay co cho Zabitosky mới tìm thấy xác Miguez, nhưng do áp lực của đối phương quá mạnh nên đành phải bỏ lại xác mấy biệt kích quân người Thượng.



Khe Sanh, 08/1965. Betsy Halstead, phóng viên hãng UPI, trong một chuyến thăm chồng ở trại LLĐB Khe Sanh, sau khi nghe kể về những nguy hiểm thường trực ở đây, đã tự tập cách sử dụng các loại vũ khí cá nhân (!)


Trong tháng 6/1967, đại đội xung kích (Hatchet Force) tấn công mục tiêu Oscar Eight, khoảng 25 dặm về hướng tây bắc thung lũng A Sầu, nơi đường 922 tách rời đường 92. Có thể coi đây là vùng đất của tử thần, vì máy bay Mỹ rơi nhiều nhất trên đất Lào. Vùng đồi núi mục tiêu Oscar Eight được bảo vệ bởi lưới lửa phòng không mạnh mẽ, cũng là nơi đặt Sở chỉ huy tiền phương của Đoàn vận tải 559, do tướng Võ Bẩm chỉ huy. Đó là trung tâm kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh.

Cả SOG lẫn tình báo Không quân đều tin rằng Oscar Eight là kho dự trữ quân dụng lớn nhất ở ngoài lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Trung sĩ John Meyer xâm nhập gần Oscar Eight nói rằng: “Chỗ đó rất nóng, nguy hiểm. Toán nào vô cũng chạy c... ra quần!” Trước trận tập kích năm 1967, đơn vị kiểm thính Mỹ cho biết, mỗi ngày có khoảng 2.300 công điện xuất phát từ đó đi Hà Nội. Tướng Westmoreland tin rằng nơi đó đặt Bộ chỉ huy Quân đội Bắc Việt hoạt động trên địa bàn lãnh thổ Quân khu I của Quân đội Sài Gòn.

Do đó, ông ta quyết định mở cuộc tập kích với quy mô rất lớn, được mở màn bằng trận oanh tạc của “pháo đài bay” B52, nhằm xóa căn cứ quan trọng của Quân đội Bắc Việt, với cái tên Tây là Oscar Eight.

01/04/1965. Phi công chính trúng đạn tử thương trong khi viên sĩ quan LLĐB được bốc về phải làm thay nhiệm vụ của xạ thủ đại liên, người bị thương nằm bên cạnh

Trận tập kích bắt đầu với 9 chiếc B52 thả hàng ngàn bom có trọng lượng từ 500-750 cân Anh xuống mục tiêu Oscar Eight, gây nhiều tiếng nổ phụ. Khi màn khói tan dần, 9 chiếc H34 Kingbee, do phi công Việt Nam lái, cộng 5 chiếc CH46 Sea Knight thả đại đội xung kích Nùng xuống kiểm tra. Quân Bắc Việt có mặt khắp nơi, như từ dưới đất mọc lên, đã bao vây khoảng 100 biệt kích quân, khi đó đang ẩn nấp trong những hố bom, gọi phi cơ yểm trợ tiếp cận. Nhưng hỏa lực phòng không của đối phương rất mạnh. Một chiếc khu trục A1 Skyraider trúng đạn, bốc cháy. Tại bãi đáp ở dưới, Trung sĩ nhất Charles Wilklow trực chiếc A1 đã chứng kiến cảnh chiếc Skyraider đâm đầu xuống đất, kéo theo mạng sống của người phi công. Những biệt kích Nùng và Mỹ cùng nấp dưới hố bom, lo chống trả những đợt tấn công của đối phương. Họ phải chiến đấu như vậy suốt cả chiều và đêm.

Ngày hôm sau, máy bay trực thăng và phản lực mới từ căn cứ Khe Sanh đến giải cứu cho đại đội xung kích. Hai chiếc trực thăng vũ trang của thủy quân lục chiến Mỹ bay thấp đã bị bắn rơi. Tiếp đến một chiếc Kingbee cũng trúng đạn bốc cháy. Rồi một chiếc CH46 của thủy quân lục chiến cũng đáp xuống bốc được một trung đội biệt kích. Cùng lúc đó, một chiếc F4 Phantom trúng đạn phòng không của đối phương, đâm vào núi bốc cháy.

Cùng thời điểm này, tại bãi đáp, Charles Wilklow, Ron Dexter, Billy Ray Laney sẵn sàng cho chuyến bốc thứ 2. Chiếc CH46 bốc được một trung đội biệt kích và bay lên. Bên trong chiếc trực thăng, Wilklow thấy đạn xuyên thủng khắp nơi, một viên trúng vào viên phi công. Chiếc máy bay lảo đảo đâm vào cây rồi rơi xuống đất, đứt làm đôi. Quân đội Bắc Việt tiếp tục nhắm vào chiếc mà nhả đạn. Lính biệt kích Nùng chết, bị thương nằm la liệt khắp nơi. Wilklow thấy Billy Laney trúng đạn ở ngực, có lẽ khó tránh được cái chết. Còn Ron Dexter thì không thấy đâu cả. Xạ thủ đại liên trên chiếc máy bay thủy quân lục chiến trúng đạn vào đầu, nằm chết gục trên thân súng. Wilklow bị thương ở chân, không chạy được, anh ta bò lết vào bụi cây gần đó định trốn.

Trong lúc đó, Billy Waugh bay bao vùng trên bầu trời, lắc đầu nhìn đám cháy ở dưới. Thế là đại đội xung kích Hatchet Force trở về không được một nửa ...Bây giờ chỉ còn hy vọng tìm những biệt kích quân sống sót đang lẩn trốn trong rừng.

Kết quả trận tập kích vào mục tiêu Oscar Eight của SOG thật thảm hại: 23 biệt kích quân Mỹ thiệt mạng; số biệt kích Nùng chết còn gấp đôi.

Tổng cộng có 58 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ trong cuộc hành quân đã chết trên đất Lào và Campuchia. Charles Wilklow là người sống sót duy nhất trở về.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P11


KHE SANH

Đầu năm 1966, Đại sứ Mỹ tại Lào là William Sullivan có vẻ dễ tính hơn, đã cho phép Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG) sử dụng trực thăng để thả hoặc bốc các toán thám báo. Ông ta cũng đồng ý cho SOG hoạt động dọc theo biên giới Việt – Lào, trong phạm vi 20 km trên đất Lào. Với phạm vi được mở rộng, đến giữa năm 1966, cơ quan SOG đã tăng số lượng toán thám báo lên đến 20 toán, cộng thêm một số đại đội xung kích được tuyển từ các bộ tộc thiểu số.



Cùng thời điểm này, SOG được trang bị súng tiểu liên CAR15 báng gấp, nòng ngắn chỉ bằng nửa khẩu M16. (Quân đội Sài Gòn lúc đó vẫn chưa được trang bị súng M16. Phải đến sau Tết Mậu Thân mới được trang bị). Những toán thám báo của SOG là những đơn vị duy nhất được trang bị súng CAR15. Tùy theo nhiệm vụ mà toán trưởng có quyền quyết định cho các thành viên được đem theo loại nào trong tất cả mọi thứ vũ khí trên thế giới lúc đó như tiểu liên Uzi của Israel; K9 của Thụy Sĩ, kể cả vũ khí trong hệ thống các nước XHCN như AK47, B40...


Mùa mưa năm 1966, SOG bắt đầu triển khai những phi vụ kiểm chứng những trận dội bom. Các toán thám báo sẽ được thả xuống khu vực mới bị máy bay B52 ném bom theo kiểu rải thảm. Việc này chưa từng diễn ra trong Chiến tranh Thế giới lần II, cũng như trong chiến tranh Triều Tiên. Những toán thám báo xâm nhập vào vùng đóng quân của đối phương, với hàng ngàn quân, được trang bị đầy đủ và họ đang căm phẫn vì vừa mới bị đánh bom. Qua sự kiểm chứng, cũng như không ảnh do máy bay U2 chụp, CIA có thể biết được những hoạt động của Quân đội Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh. Đến giữa năm 1966, SOG nổi tiếng trong mạng lưới CIA, vì họ có thể đến bất cứ nơi nào và dám làm mọi chuyện.

Tháng 7/1966, chương trình hành quân Shining Brass đã tổ chức 48 cuộc xâm nhập vùng hoạt động của đối phương trên đất Lào, nhưng chỉ bị thiệt hại rất nhẹ: 1 chết, 8 biệt kích quân Mỹ bị thương. Cùng thời điểm đó, SOG di chuyển các toán thám báo đến căn cứ Khe Sanh để do thám khu phi quân sự, với chiều dài khoảng 14 dặm, tạm thời ngăn cách hai miền Bắc – Nam Việt Nam. Đồng thời SOG còn mở rộng phạm vi hoạt động về hướng tây, dọc theo đường 9, sang nam Lào, đến Tchepone, là khu vực Quân đội Bắc Việt đóng quân, làm đường.

Từ một trại biệt kích nhỏ bên cạnh sân bay, SOG đưa các toán thám báo xâm nhập Khe Sanh. Tại đây, những toán thám báo phát hiện ra một bí mật mà họ rất tự hào. Đó là tìm ra “Khe núi xe đạp”, là một thung lũng hẹp, nơi Quân đội Bắc Việt chất đồ lên xe đạp trước khi lên đường vào Nam. Mỗi chiếc xe đạp có thể chở trên 200 kg lương thực, vũ khí, quân dụng. Thanh niên xung phong đẩy xe đạp từ binh trạm này đến binh trạm khác, rồi đạp xe không về chở chuyến khác. Xe ô tô vận tải của đối phương di chuyển rất nhộn nhịp hướng tây khu phi quân sự. Đêm đêm, từng đoàn xe chạy nối đuôi nhau, chỉ trừ khi bị ném bom. Lúc đó, các xe ủi đất của công binh và TNXP túa ra lấp hố bom, dọn dẹp chướng ngại vật rất nhanh chóng.


Quân đội Bắc Việt vào Nam chủ yếu theo cách tự túc. Họ đi bộ, mang theo ít đồ ăn khi rời miền Bắc. Trên đường hành quân, họ đóng quân dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, săn bắn, trồng trọt để có thêm thực phẩm. Những nơi biệt kích quân phát hiện ra, phải công nhận đối phương ngụy trang rất khéo léo và cẩn trọng: Hầu hết hệ thống đường mòn, các binh trạm, kho tiếp vận, bãi chứa xe đều không thấy trên không ảnh. Chỉ có những toán biệt kích quân mới tìm ra, nhờ xâm nhập trên bộ vào sâu khu vực đóng quân của đối phương.

Tại Khe Sanh, các toán thám báo đặt lòng tin và sinh mạng của họ cho hai viên phi công can đảm của Phi đoàn 219 Cowboy và Mustachio. Hai viên phi công này dám liều mạng bốc những biệt kích quân đang bị bao vây, bất chấp hỏa lực của đối phương hay thời tiết xấu.

Khoảng giữa năm 1966, Mustachio đã bay đêm trong một phi vụ khó quên. Một toán thám báo bị tấn công ngay tại địa điểm đóng quân qua đêm. Họ khó có thể chạy thoát trước khi trời sáng trong khi phải đem theo mấy đồng sự bị thương. Cả phi công trực thăng Mỹ lẫn Việt đều lắc đầu không dám bay trong màn đêm, ngoại trừ Mustachio tình nguyện bay. Chuyến ra đi gần như đi vào cõi chết nên Mustachio đi một mình, không đem theo phi công phụ cũng như xạ thủ đại liên. “Tôi không biết làm cách nào mà Mustachio có thể đem họ ra được”. Scotty Crerar tả tiếp: “Chiếc trực thăng bay về với 88 lỗ đạn và viên phi công bị bắn mất ngón cái”.


"Mustachio" Nguyễn Văn Hoàng trước một phi vụ

Trớ trêu thay, chỉ vài tuần sau trong một chuyến chở toán thám báo Nevada về Kontum, khi chiếc trực thăng bay tới gần trại Khâm Đức, đuôi máy bay bỗng rơi ra, đập vào thân tàu, làm văng các thành viên toán Nevada cùng phi hành đoàn ra giữa không trung. Tất cả đều thiệt mạng kể cả Mustachio và phi hành đoàn. Toán thám báo Nevada gồm: Đại úy Edwin Mc Namara (sĩ quan hành quân), Thượng sĩ Ralph Reno, Trung sĩ Donald Fawcett cùng những biệt kích quân người Nùng. Các toán thám báo khác đã đem được xác những biệt kích quân cùng phi hành đoàn tử nạn về, trừ xác của Ralph Reno.

Ba tuần sau, một toán thám báo khác xâm nhập khu vực hướng tây Khe Sanh. Đến ngày thứ 3, khi toán thám báo đang trên đường xuống núi Cơ Rốc, đến một con suối lớn để lấy nước uống, Trung sĩ nhất Whalen cùng Sain canh chừng cho Trung sĩ Laws cùng 2 biệt kích Nùng xuống suối lấy nước trước thì đối phương bất ngờ xuất hiện. Khi Whalen định báo động, Sain đã trúng đạn AK vào mặt, không kịp bắn trả đối phương. Trong lúc đạn AK nổ vang trời, Whalen vội nhào xuống suối, hai biệt kích Nùng khác cùng Laws nhảy xuống bơi xuôi theo dòng suối. Không hiểu từ đâu Quân Bắc Việt tràn ra rất đông, họ cũng nhào xuống suối, vừa bắn vừa đuổi theo khiến Whalen phải bơi ngược dòng suối, nên không gặp Laws cùng hai biệt kích quân người Nùng còn sống sót. Đi được một quãng, thấy có chùm cây chìa ra bờ suối, Whalen hít vào một hơi dài rồi lặn chui vào trong lùm cây nằm im.

Quân BắcViệt lục soát một hồi không thấy gì liền bỏ đi. Whalen vẫn chưa dám sử dụng máy truyền tin báo nguy vì đối phương vẫn còn quanh quẩn đâu đó. Đợi đến khi trời tối, Whalen mới ra khỏi chỗ trú ẩn và được trực thăng cứu thoát. Anh ta là người duy nhất trong toán thám báo còn sống sót. Hai ngày sau, SOG cho một toán thám báo khác vào lấy xác. Đúng theo báo cáo của Whalen, họ đem về được xác của Sain. Còn Laws cùng 2 biệt kích Nùng mất tích không tìm ra xác. Thân nhân của họ cũng không biết chính xác về cái chết của người thân ngoài tờ giấy ghi vẻn vẹn một câu: “Mất tích trong một chuyến đi trinh sát ở miền Nam Việt Nam”.


Mùa khô 1966-1967, Trung tướng Lewis W. Walt, Tư lệnh thứ 3 của Thủy quân lục chiến, yêu cầu SOG trinh sát khu vực gần khu phi quân sự. Vì theo ông ta, trong cuộc hành quân Hastings, lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đã đẩy lui hai sư đoàn Bắc Việt về khu phi quân sự, chiếm hai vị trí quan trọng là Cồn Tiên và dãy đồi Rockpile. Hai vị trí chiến lược này liên tục ăn đạn pháo binh của đối phương giấu trong khu phi quân sự. Không biết hai sư đoàn của đối phương di chuyển đi đâu? Cộng thêm vài dấu hiệu chứng tỏ Quân đội Bắc Việt có thể tấn công hai tỉnh cực bắc miền Nam Việt Nam. Một loạt câu hỏi được đặt ra: “Đối phương đi đâu? Tăng viện cho ai? Pháo binh họ giấu ở đâu?” Tướng Walt muốn biết lời giải đáp cho những câu hỏi đó.


Tướng Lewis W. Walt

Thế là những toán thám báo của SOG chuẩn bị hành trang để đi lên hướng bắc, thay thế cho Thủy quân lục chiến, đảm nhiệm việc trinh sát. Họ đem theo phương tiện nghe trộm đường dây điện thoại của Quân Bắc Việt, vì trước đó SOG khám phá ra hơn chục đường dây điện thoại của đối phương, rải dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Ban tham mưu của tướng Walt đánh dấu trên bản đồ 17 mục tiêu trong khu phi quân sự và dọc theo biên giới Việt – Lào cho các toán thám báo SOG. Ba toán đầu tiên vào khu vực đã đánh dấu trên bản đồ, gắn máy nghe trộm. Nhưng chưa được 3 ngày, hai toán đã phải chạy tháo thân. Ba toán kế tiếp vào được hơn hai ngày thì chạm trán đối phương, họ chạy thoát được và đem về một tù binh.


Đồi 881, Khe Sanh, 10/5/1967. Trung sĩ Robert đốt những giấy tờ cá nhân
phòng khi cao điểm không trụ vững trước áp lực của đối phương

Ngày 28/9/1966, toán thám báo chạm trán với một đại đội Quân Bắc Việt ở gần Khe Sanh. Toán thám báo bị xé lẻ, Trung sĩ Danny Taylor cùng hai biệt kích Nùng mất tích. Năm hôm sau, toán Colorado và Arizona được trực thăng Thủy quân lục chiến đưa vào khu vực gần Khe Sanh. Toán Colorado xâm nhập trước, tại một địa điểm ở gần bắc bờ sông Bến Hải, phía tây khu phi quân sự. Sau đó, trực thăng quay về để đưa toán Arizona tiếp tục xâm nhập mục tiêu đã định.

Nhưng khi chiếc CH46 thả xong toán Arizona, vừa bay lên thì các loại súng của đối phương thi nhau nhả đạn vào bãi đáp. Toán Arizona đổ xuống đúng nơi đóng quân của đối phương (!). Cách đó 15 dặm, toán Colorado nghe rõ tiếng kêu cứu của toán Arizona: “Đến đón tụi tôi ra! Bạn phải đến đem tụi tôi ra!” Mặc dù có máy bay yểm trợ, bắn xung quanh bãi đáp nhưng súng của đối phương vẫn nổ, không cho toán Arizona ngóc đầu lên. Cuối cùng, trên sóng điện đàm có tiếng của hiệu thính viên toán Arizona là Echevarria rất bình tĩnh, anh ta nói: “Thôi hết! Bạn hiền!”. Rồi tiếp câu: “Đừng đến nữa! Chấm dứt!”. Lần đầu tiên trong hồ sơ của SOG ghi nhận: “Nguyên một toán thám báo bị nuốt sống!”. Trong số 7 chiếc trực thăng đến giải cứu toán Arizona thì 6 chiếc cùng 1 khu trục A1 Skyraider trúng đạn, may không chiếc nào bị rơi.


HÀNH QUÂN DANIEL BOONE

Ngồi trong chiếc máy bay quan sát, Wilcorek để ý đến con đường 19 ở đông bắc lãnh thổ Campuchia. Con đường này rộng đủ cho hai làn xe chạy. Từ trên cao, Wilcorek vẫn nhìn rõ con đường tắm bụi, chứng tỏ có đoàn xe đang di chuyển trên con đường, vì khu vực xung quanh không có làng mạc hay dấu hiệu nào của dân cư. Trong lúc đó, chỉ riêng tháng 10/1965, tại thung lũng Ia Drang, Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đã mất 304 quân trong trận đụng độ với hai trung đoàn chính quy của Quân đội Bắc Việt, họ di chuyển và nhận tiếp tế từ Campuchia sang.


Thung lũng Ia Drang, 1965. Lính Sư 1 Kỵ binh bay Mỹ tăng cường vừa được trực thăng đổ xuống, trên đường di chuyển đến núi Chư Pong, Ia Drang, nơi đang diễn ra trận đánh đẫm máu

Năm 1966, đường 19 được bí mật nối liền với đường 110 và đường 96 trên đất Lào. Điều đó cho thấy hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh không dừng lại ở Lào mà tiếp tục vươn dài về hướng nam Campuchia. Cuối năm 1966, các toán biệt kích thường xuyên phát hiện những đoàn xe quân sự của đối phương chuyển quân quá cảnh qua đất Campuchia. Với thông tin trên, đầu năm 1967, tướng Westmoreland cùng đô đốc Grant Sharp, Tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương yêu cầu giới chức thẩm quyền ở Washington cho phép SOG được xâm nhập, do thám lãnh thổ Campuchia. Tháng 5/1967, SOG được chấp thuận tổ chức cuộc hành quân Daniel Boone, vượt biên sang lãnh thổ vương quốc Campuchia.

Vào thời điểm đó, chính quyền Sihanouk có mối liên hệ mật thiết với chính quyền Bắc Việt. do đó, việc các biệt kích xâm nhập đất Campuchia phải giấu nhẹm, để Bộ Ngoại giao Mỹ có thể chối cãi dễ dàng khi cần. Có nghĩa là các toán biệt kích chỉ có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo chiến lược; không được tấn công, phá hoại, phục kích hoặc gài mìn, bẫy. Họ được dặn dò cẩn thận, để tránh nhầm lẫn giữa lính Campuchia với Quân đội Bắc Việt, vì cả hai đều mặc quân phục xanh, trang bị AK47. Trực thăng võ trang là hỏa lực duy nhất yểm trợ cho các toán biệt kích hoạt động trên đất Campuchia, nhưng chỉ trong trường hợp khẩn cấp.

Lúc đầu, cuộc hành quân Daniel Boone chú trọng vào khu vực rừng núi rậm rạp vùng tây bắc Campuchia, nơi giáp ranh với cao nguyên Trung bộ, thuộc địa bàn Quân khu II của Quân đội Sài Gòn. Chuyến đầu tiên có vẻ may mắn. Ngày 15/6/1967, SOG bắt đầu chuyến xâm nhập thứ 2. Sau này, Trung sĩ nhất Lowell Stevens nguyên trưởng toán biệt kích nhớ lại: “Đó là ngày dài nhất trong cuộc đời tôi”.

Trong khi đó, toán Colorado có vẻ thành công khi khám phá ra nhiều căn cứ của Quân đội Bắc Việt, họ gắn được máy nghe trộm và đem về được 7 cuốn băng cassetes ghi âm những cuộc điện đàm của đối phương. Những máy nghe trộm điện thoại do các toán thám báo đặt trong lòng đối phương đã đem lại những nguồn tin tình báo rất có giá trị.
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P12



Toán biệt kích được một chiếc Kingbee H34 không phù hiệu thuộc Phi đoàn 219 của Không quân Quân đội Sài Gòn đưa đến địa điểm xâm nhập, bãi đáp là một sườn núi, nằm trong lãnh thổ Lào khoảng 100 m. Trưởng toán (One-Zero) Lowell Stevens cùng toán phó là Trung sĩ Roland Nuqui và 4 biệt kích Nùng chạy ra khỏi bãi đáp là những mảng cỏ tranh bị cháy, rồi biến mất vào trong cánh rừng rậm rạp. Phía sau họ là những tiếng gọi nhau ơi ới (?!) cùng tiếng súng bắn báo động. Họ đã bị đối phương phát hiện.


Chu Lai, 4/11/1965. Nữ phóng viên chiến trường Dickey Chapelle trúng đạn khi đi cùng một đơn vị Thủy quân lục chiến Mỹ

Nhiệm vụ của toán biệt kích là phải tìm ra hai con đường mòn, vốn là trạm đóng quân, cũng là vị trí đặt súng đại bác của pháo binh Quân đội Bắc Việt trong 5 ngày. Toán biệt kích đã bị lộ khi xâm nhập. Bây giờ chỉ còn cách cầu trời trong lúc Quân Bắc Việt đang bủa lưới bao vây tứ phía. Không còn cách nào khác, Stevens đặt khẩu tiểu liên Thụy Sĩ K9 xuống đất, gọi về Trung tâm: “Đám Bê bối (?!) đang bao vây tụi tôi. Yêu cầu cho rút quân ngay tức khắc!” Nhưng thật xúi quẩy cho toán biệt kích, viên sĩ quan điều không (APC) của SOG ngồi ghế sau chiếc máy bay quan sát lại là người không có kinh nghiệm về chiến tranh ngoại lệ. Anh ta tưởng rằng Stevens nói đùa nên không ra lệnh cho chiếc Kingbee quay trở lại bốc toán biệt kích. Viên sĩ quan này đòi hỏi phải có bằng chứng áp lực của đối phương. Trong lúc đó, toán trưởng biệt kích cùng các thành viên trốn ở trong bụi rậm, nghe rõ tiếng viên sĩ quan Bắc Việt ra lệnh cho binh sĩ của họ di chuyển lên đỉnh núi, nơi toán biệt kích vừa lẩn trốn.

Thực ra, Stevens cùng các thành viên của anh ta trực thuộc chương trình hành quân Omega. Trên văn bản, giấy tờ họ thuộc quân số Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ, là đơn vị chủ quản của cuộc hành quân Omega, do B50 Lực lượng đặc biệt bảo đảm và B56 đảm nhiệm. Hai sở chỉ huy hành quân này có nhiệm vụ xâm nhập vùng đối phương kiểm soát trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Thế nhưng các sĩ quan cao cấp của Liên đoàn biệt kích số 5 lại muốn giành nhiệm vụ xâm nhập lãnh thổ Campuchia. Rút cuộc, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam giao cả hai cuộc hành quân Omega và Sigma cho SOG chỉ huy. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự trục trặc trên.


Phải thúc giục rất nhiều lần, cuối cùng viên sĩ quan điều không mới điều 4 chiếc trực thăng vũ trang (Huey gunship) bắn yểm trợ cho trực thăng H34 vào bốc toán biệt kích ra. Do sườn núi có độ dốc cao nên chiếc H34 đem theo một quân nhân Mỹ là Thượng sĩ Ben Snowden, để trợ giúp việc lôi các biệt kích quân lên máy bay.

Khi Stevens nâng người biệt kích Nùng dẫn đường lên cho Snowden thì đối phương bắn xối xả vào chiếc máy bay, khiến chiếc Kingbee lắc lư, nhưng vẫn gắng gượng đem toán biệt kích ra khỏi vùng đang bị hỏa lực của đối phương khống chế. Tuy nhiên, với 68 viên đạn vào thân, chiếc H34 không thể không rơi xuống đất. Từ nơi trú ẩn, Stevens nhìn lên sườn núi thấy một cái hang, bên trong là khẩu đại liên mà đối phương đã ngưng bắn, sau khi chiếc trực thăng H34 rơi.

Chiếc Kingbee thứ 2 gọi thêm máy bay khu trục thả bom, làm thành lưới lửa che cho toán biệt kích rồi đáp xuống. Khi chiếc trực thăng bốc lên cao khoảng 30 bộ, khẩu đại liên trong hang lại khạc ra lửa(?!), bắn đứt đuôi chiếc trực thăng.



TQLC Mỹ tại Khu phi quân sự (DMZ), 21/9/1966. Sau cuộc hành quân Hastings giành lại quyền kiểm soát bờ nam khu DMZ (Dọc theo sông Bến Hải, rộng 1,6km từ bờ sông vào mỗi bên,kéo dài từ biên giới Việt - Lào đến biển Đông), Tướng Walt, Tư lệnh TQLC, đã để lại 3 tiểu đoàn TQLC (sau tăng lên 7 tiểu đoàn) chốt chặn tại các cao điểm phía nam sông Bến Hải. Họ liên tục phải chịu sức ép từ Sư đoàn 324B, Quân đội Bắc Việt Nam

Chiếc Kingbee quay như chong chóng trên trời, rồi rơi xuống đất bốc cháy. Cả toán biệt kích cùng với phi hành đoàn chạy thoát lên một ngọn đồi khác lẩn trốn. Chỉ còn chiếc Kingbee duy nhất trên trời, nhưng nó phải quay về đổ thêm xăng.

Cộng cả nhân viên phi hành đoàn, tất cả có 9 người trong đó có viên xạ thủ đại liên trên chiếc H34 bị thương nặng. Từ trên đồi, họ theo dõi những chiếc khu trục A1 Skyraider thả bom Napalm xuống chân đồi.

Thêm một chiếc máy bay bị trúng đạn rơi xuống. Những biệt kích quân nín thở nhìn chiếc dù bị gió thổi dạt về hướng có quân Bắc Việt. Sau đó đoàn trực thăng vũ trang khác xuất hiện, chiếc Kingbee còn lại xà xuống bốc tất cả về Dakto an toàn. Stevens cùng toán biệt kích Nùng lê bước khỏi trực thăng, họ hoàn toàn kiệt sức. Trong một chiếc poncho có xác Thượng sĩ Snowden. Anh ta lĩnh 9 viên đạn trong tổng số 68 viên bắn trúng chiếc Kingbee thứ nhất. Để dành danh dự cho người biệt kích quân đầu tiên hi sinh trong cuộc hành quân Daniel Boone, sở chỉ huy căn cứ ở Kontum được đặt tên là Snowden Hall.

Bù lại những tổ thất, trong vòng vài tháng, các toán biệt kích thuộc chương trình hành quân Daniel Boone đem về nhiều tin tức về hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh, với các trạm điện thoại, căn cứ và kho tiếp vận của đối phương. Tại phía nam vùng ba biên giới dưới tỉnh Pleiku là một khu vực hiểm trở, rừng núi rậm rạp. Quân đội Bắc Việt xây dựng một căn cứ rất rộng lớn. Quân đội Bắc Việt và Quân Giải phóng tập trung trong khu vực này từ 3 đến 4 sư đoàn. Nhất là khu vực Lưỡi Câu gần Lộc Ninh (do có hình thù giống như chiếc mũi của Tổng thống Mỹ quá cố Kenedy, nên còn có tên gọi là mỏm Kenedy), ở đó đối phương đặt Bộ chỉ huy tối cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Trung ương cục miền Nam (thường gọi là R). Với vị trí chiến lược đó, hầu hết những chuyến xâm nhập sang Campuchia của SOG đều nhắm vào khu vực Lưỡi Câu và vùng 3 biên giới.

Vào cuối mùa mưa năm 1967, Quân đội Mỹ bị thiệt hại nhiều nhất trong trận Dakto, gần khu vực hoạt động của các đơn vị SOG. Trong lúc Lữ đoàn Dù 173 của Mỹ đánh chiếm từng thước đất trên đồi 875 ở tây nam Dakto, thì vài toán biệt kích của SOG xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia 5 dặm về hướng tây, để yểm trợ cho Lữ đoàn 173 (có thể đơn vị này chưa biết các hoạt động của SOG).

Toán thứ nhất do Stevens làn trưởng toán, toán phó là Trung sĩ nhất Ken Shoebox Carpenter. Họ theo đường bộ xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia từ Nam Lào, nhằm tìm ra con đường tiếp tế cho các đơn vị đang chiến đấu trên đồi 875. Đồng thời, để biết đối phương sẽ tăng viện thêm quân hay rút lui. Toán biệt kích này lục soát suốt 2 ngày. Đến trưa ngày thứ 3, họ mới phát hiện ra con đường được trồng cây giả và rải lá ngụy trang. Toán biệt kích bố trí và chờ đợi...

Trời vừa chập tối, toán biệt kích bắt đầu nghe tiếng động cơ xe Molotova. Khoảng 10 giờ đêm, từng toán Thanh niên xung phong xuất hiện, lặng lẽ dọn đường cho xe đi. Con đường nhỏ, chỉ đủ cho chiếc xe vận tải chạy qua. Nửa giờ sau, đoàn xe vận tải chạy qua đem theo đồ tiếp tế cho đơn vị đang đánh trên đồi 875. Như vậy, đối phương không tăng viện thêm người vào chiến trường. Khoảng 4 giờ sáng, đoàn xe trở lại đem theo tử sĩ quân Bắc Việt. Trước khi trời sáng, đội quân TNXP lại xuất hiện, âm thầm trồng lại cây, một vài người trong số họ mang túi lớn, đi sau để rải lá cây trên mặt đường để giấu những vết xe.

Biết được bí mật này, mùa khô 1967-1968, SOG sử dụng quân của Liên đoàn Biệt kích số 5 của Mỹ, thực hiện cuộc hành quân Omega và Sigma, thuộc chương trình hành quân Daniel Boone. Những toán biệt kích đóng tại Buôn Mê Thuột được lệnh xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia. Các toán khác đóng tại Kontum đảm nhiệm những mục tiêu ở vùng Nam Lào. Sở chỉ huy tại Đà Nẵng với các căn cứ hành quân tiền phương ở Phú Bài, Khe Sanh và Kontum trở thành Sở chỉ huy Bắc (CCN). Tên các toán biệt kích đều lấy tên các tiểu bang Mỹ hoặc rắn như Anaconda, California... Buôn Mê Thuột lúc này trở thành Sở chỉ huy Nam (CCS). Tên các toán biệt kích là tên những dụng cụ như Saw (Cưa), Hammer (Búa)...


Đồi 110, 12/5/1967. Một lính Thủy quân lục chiến Mỹ bên cạnh xác đối phương đã bị phân hủy.

Trước đó nơi đây đã diễn ra 1 trận đánh giữa 2 bên. Có thể người lính bị thương đang trên đường tìm đồng đội của mình

Ngày 29/1/1968, đã xảy ra trường hợp mất tích đầu tiên ở Campuchia. Đó là Trung sĩ nhất Charlie White, anh ta chỉ còn 3 ngày nữa là hết thời hạn phục vụ ở Việt Nam. Thế nhưng trong chuyến xâm nhập vào khu vực đông bắc Campuchia, khi chạm trán với đối phương, Charlie chạy đến một khoảng đất trống để trực thăng có thể dùng dây câu lên. White to cao như cầu thủ bóng đá, với thân hình cao 1, 95 m; nặng 126 kg. Khi trực thăng mới kéo anh ta lên cao khoảng trên 760m thì White rơi xuống đất. Trong lúc đó, đối phương vẫn đang truy kích và vì trời đã tối nên phải đợi đến sáng hôm sau SOG mới tổ chức tìm kiếm Charlie White.

Toán cấp cứu Bright Light gồm Trung sĩ nhất Zabitosky và Dallas Longstreath nhảy xuống khu vực bãi đáp, nơi bốc toán biệt kích hôm qua. Họ tìm thấy dấu vết Quân Bắc Việt dàn hàng ngang lục soát trên đồi, rồi tụ lại tại một điểm có cây bị gãy, có lẽ là nơi Trung sĩ White rơi. Không thấy có vết máu. Khu vực xung quanh có nhiều dấu chân đối phương. Dò quanh đó vẫn còn quân Bắc Việt, toán biệt kích Bright Light đành phải quay về. Bộ Quốc phòng Mỹ coi như Trung sĩ White tử trận. Trung sĩ Zabitosky là người đi tìm thì tin rằng bị bắt, nhưng không có tin tức gì.

Một trường hợp mất tích khác xảy ra tại Campuchia, người tường tận sự việc là Trung úy Harry Jr. Kroske khá nổi tiếng, làm trưởng toán Hammer ở Buôn Mê Thuột. Toán Hammer gồm 2 biệt kích Mỹ và 4 biệt kích Nùng, có nhiệm vụ do thám khu vực Lưỡi Câu, nơi tình nghi có căn cứ lớn của Quân đội Bắc Việt Nam và Trung ương Cục miền Nam (R). Sau vài ngày thực tập, toán biệt kích xuất phát từ căn cứ hành quân tiền phương là trại biệt kích Bù Đốp, xâm nhập đất Campuchia vào một buổi chiều.

Bãi đáp toàn cỏ tranh nên rất trống trải. Toán biệt kích di chuyển thật nhanh đến một cánh rừng cách đó khoảng một phần tư dặm. Vào đến bìa rừng, Trung úy Kroske ra lệnh cho Stockdale liên lạc với sở chỉ huy, trong khi anh ta cùng người dẫn đường là biệt kích Nùng đi sâu vào khu vực được dánh dấu trên bản đồ, để quan sát một con đường lớn mà họ trông thấy từ trên cao.


Stockdale báo cáo xong thì trực thăng bao vùng bay về căn cứ. Còn nửa tiếng nữa mặt trời mới lặn. Toán biệt kích di chuyển tìm địa hình đóng quân đêm. Bỗng một tràng đạn AK xé toang khoảng không vắng lặng (cả biệt kích lẫn đối phương đều sử dụng súng AK). Thêm nhiều tràng súng đạn nổ vang dội chỉ cách Stockdale khoảng 50 feet, cũng là nơi Kroske cùng người biệt kích Nùng đi thăm dò. Stockdale vội vã gom toán biệt kích còn lại, sẵn sàng ứng chiến. Đúng lúc đó, người lính Nùng chạy trở lui báo cáo: “Trung úy chết rồi!”.

Stockdale bất chấp nguy hiểm, chạy lên tìm Kroske. Anh ta mới di chuyển được vài bước thì súng AK nổ tiếp, đạn cày đất tung tóe lên, buộc Stockdale phải nằm xuống, mấy người lính Nùng hoảng hốt bỏ chạy. Mãi sau này, Stockdale mới được biết Kroske chạm trán ba người lính Bắc Việt. Anh ta nổ súng trước, trúng hai lính Bắc Việt. Người thứ ba bắn trả lại, 2 viên trúng vào bụng, một viên vào ngực Kroske. Thấy tình thế nguy hiểm, Stockdale chạy trở lui, chui vào một góc rừng nằm im khoảng 5 giờ đồng hồ. Suốt cả đêm, quân Bắc Việt lùng sục khắp nơi, nhưng không tìm thấy người lính biệt kích Mỹ ở đâu.

Trong khi đó, cách Buôn Mê Thuột 80 dặm, một đơn vị duy nhất của Không quân Mỹ là Phi đoàn 20 Hành quân đặc biệt gửi 6 chiếc trực thăng Huey đi cứu Stockdale. Trực thăng thuộc phi đoàn này không sơn phù hiệu không quân Mỹ, mà sơn hình con ong nên có biệt danh “Green Hornets”. Phi đội trực thăng phải mất gần 3 giờ đồng hồ quần đảo, uy hiếp đối phương mới thả được dây cấp cứu xuống câu Stockdale ra khỏi vùng nguy hiểm. Trung úy Kroske mất tích, không thu hồi được xác. Stockdale trở thành trưởng toán Hammer gần 2 năm và anh ta khá nổi tiếng tại Sở chỉ huy Nam (CCS). Còn trong Phi đoàn Green Honests, Thiếu úy phi công Flemming lại nổi danh về tài thả những toán biệt kích của SOG.


Bình Giã, 01/1965

Trong một phi vụ thả toán biệt kích Chisel xuống mục tiêu Tango 51, có sự tham gia của Thiếu tá Paul Mc Clellan. Toán Chisel đáp đất an toàn, liền di chuyển đến một dòng sông rộng làm nhiệm vụ thám thính sự di chuyển của đối phương trên sông. Chiếc trực thăng Green Hornets bay về trại biệt kích Đức Cơ, gần nơi xuất phát của những toán biệt kích. Họ sẽ ăn trưa, lấy thêm xăng, đợi đến chiều sẽ bay về hướng nam để thả những toán biệt kích khác.

Trong khi đó, toán Chisel đã bố trí xong đội hình trong một bụi cây gần bờ sông để quan sát. Toán này do Trung sĩ Ancil Sonny Franks làm trưởng toán đã gần một năm. Toán phó là Trung sĩ Charles Hughes cùng 3 biệt kích người Thượng. Trong chuyến xâm nhập này có cả Đại úy Randolph, là đại đội trưởng đại đội thám báo. Ông ta đi theo cốt để kiểm tra lính của mình làm ăn ra sao.

Trong lúc cả toán ngụy trang thêm cho chỗ ẩn núp, Hughes đang kéo cần anten lên để liên lạc, thì bị đối phương tấn công. Trung sĩ Hughes cố gắng gọi cầu cứu, nhưng không ai trả lời. Trưởng toán Franks biết mình bị kẹt ở bờ sông, hết chỗ chạy. Toán biệt kích cố gắng cầm cự tại chỗ trong lúc Quân Bắc Việt đang xiết chặt vòng vây. Hughes tiếp tục liên lạc cầu cứu, nhưng Phi đoàn 5 chiếc trực thăng Green Hornets đã bay xa 30 dặm, không chiếc nào nghe được tiếng cầu cứu của Hughes.

May thay, trên không phận lúc đó có máy bay FAC do Thiếu tá Charles Anonsen của thủy quân lục chiến lái. Charles Anonsen bắt được tần số của toán Chisel, liền bay về hướng toán đang bị vây để nghe rõ hơn. Đồng thời anh ta gọi Phi đoàn Green Hornets quay trở lại. Thêm một trở ngại nữa là các trực thăng đã gần hết xăng, chỉ còn đủ nhào xuống một chuyến bốc toán biệt kích. Hai chiếc Gunship cố gắng đẩy lùi quân Bắc Việt ra xa để chiếc khác xuống bốc. Không ngờ đối phương có súng máy phòng không 12,7 ly, họ đã bắn rơi một chiếc. Chiếc thứ hai xuống cứu được phi hành đoàn và bay thẳng về Đức Cơ, vì gần hết xăng.

Toán Chisel bị đẩy lui dần về bờ sông. Thêm một chiếc trực thăng phải bay về vì hết xăng, còn lại hai chiếc trên không. Chiếc thả quân thám báo do Flemming lái và chiếc Gunship do Thiếu tá Leona Gonzales lái. Chiếc Gunship nhào xuống bắn đại liên và rocket xung quanh toán biệt kích, cũng bị trúng đạn bốc khói. Flemming đã gần hết xăng, phải chọn 1 trong 2 cách: nhào xuống bốc toán biệt kích hoặc quay về. Được FAC hướng dẫn, Thiếu úy Flemming nhào xuống, đúng lúc đó quân Bắc Việt nổ súng quyết liệt. Không biệt kích quân nào ngóc đầu lên được để chạy ra trực thăng. Rồi quân Bắc Việt xung phong, Flemming nghe tiếng báo động trên máy truyền tin: “Tụi nó vô được rồi! Vô được rồi! Chạy đi, bay đi!”. Thiếu úy Flemming kéo cần lái, chiếc trực thăng rời bờ sông, bay lên trời cao...


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P13




HÀNH QUÂN SALEM HOUSE
Đầu năm 1969, cảng Sihanouk Ville của Camphuchia nhộn nhịp tàu qua lại, với những chiếc tàu chở hàng đến từ các quốc gia Đông Âu. Hàng đoàn xe vận tải của công ty Hak Ly chờ bốc hàng, sau đó theo đường số 4 đi Phnom Pênh. Đoàn xe rẽ vào một kho tiếp vận quân sự ở ngoại ô thành phố, giao đồ tiếp liệu cho các viên chức Bắc Việt Nam. Những kiện hàng bí mật chứa vũ khí, đạn dược được tiếp tục vận chuyển suốt đêm trên đường số 7, băng qua đồn điền cao su, đến vùng biên giới rậm rạp thuộc tỉnh Kompongcham hay khu vực Lưỡi Câu. Khu vực này do Đoàn Hậu cần 70 đảm nhiệm, gồm nhiều kho lương thực tiếp vận, yểm trợ cho ba sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: Công trường 9; Công trường 5 và Công trường 7.

Như vậy, tất cả mọi vũ khí, đạn dược vào đến lãnh thổ Quân khu III và IV đều quá cảnh qua Campuchia. Sau 21 tháng bí mật xâm nhập, SOG đã khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200.000 quân Giải phóng và Quân đội Bắc Việt. SOG được giao chỉ huy cuộc hành quân xâm nhập vào đất Campuchia, với tên gọi là Daniel Boone. Đến cuối mùa mưa năm 1969, đổi tên thành Salem House để giữ bí mật. Sự hiện diện của Quân đội Bắc Việt được xác định ngày 2/3/1969, khi một toán biệt kích SOG thuộc Sở chỉ huy Nam (CCS) bị đối phương phát hiện, truy kích khiến 2 biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ là Trung sĩ William Evans và Micheal May mất tích, xác của họ không tìm ra.

Tổng thống Mỹ Johnson ra lệnh cho pháo đài bay B52 bí mật thả bom xuống khu vực Lưỡi Câu, gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩ quan Navigator biết mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, Tổng thống Johnson lại hạ lệnh cho B52 ném bom xuống mục tiêu do Tướng Abram đề nghị. Đó là căn cứ của Trung ương cục miền Nam (R), do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Mimốt, Campuchia 14 dặm về hướng đông nam; cách biên giới Việt Nam – Campuchia 1 dặm. Trận đánh bom này diễn ra ngày 24/4/1969.

Chuẩn tướng Phillip B. Davision, trưởng phòng Nhì của Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV) yêu cầu SOG cho một đơn vị nhảy vào “thu dọn” chiến trường sau khi trận ném bom B52 chấm dứt. Đại tá Cavanaugh ra lệnh cho Sở chỉ huy Nam chuẩn bị cho một Đại đội xung kích (Hatchet Force) nhảy vào.

Trong khi đó tại Sở chỉ huy Nam, “Mad Dog” Shriver, một tên tuổi trong làng biệt kích được giao nhiệm vụ đặc biệt. Trong căn cứ Fort Braggs (Trung tâm chỉ huy biệt kích Mỹ) không ai biết đến SOG là đơn vị nào, cũng như cuộc hành quân Daniel Boone hoặc Salem House là gì, nhưng tên tuổi của Trung sĩ nhất Jerry Shriver đã khét tiếng từ lâu. Chẳng thế mà Jerry Shriver còn có biệt danh là “Chó điên”. “Mad Dog” Shriver cũng là người thích ăn nói bạt mạng nhất trong làng biệt kích Mỹ. Những câu nói liều mạng của Shriver lại được đám biệt kích Sài Gòn tán dương. Có lẽ do các hành động của biệt kích quân nên buộc họ phải liều mạng. Trong một cuộc hành quân, toán biệt kích của Shriver bị đối phương bao vây chặt. Máy bay điều không FAC cho Shriver biết: “Tình hình coi bộ rất xấu”. Anh ta trả lời tỉnh bơ: “Không! Không có gì đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn” (Dù bị bao vây chặt bên trong lòng đối phương).

Sáng ngày 24/4/1969, trong khi máy bay B52 cất cánh từ đảo Guam thì Đại đội xung kích thuộc Sở chỉ huy Nam tập hợp tại sân bay Quản Lợi (Bình Long), cách căn cứ Trung ương cục Miền Nam khoảng 20 dặm. Đại đội xung kích này có nhiệm vụ vào “thu dọn” chiến trường, sau khi B52 ném bom.

Năm chiếc trực thăng Green Hornet chở 2 trung đội đổ bộ xuống khu vực đã được đánh dấu trên bản đồ. Trung đội thứ 3 do Thiếu úy Bob Killebrew được bố trí ở lại sân bay Quản Lợi làm dự bị. Trung đội 1 của Trung úy Walter Marcantel và Trung đội 2 do Trung úy Greg Harrigan sẽ đổ bộ xuống khu vực gọi là căn cứ Trung ương cục Miền Nam. Khi hai trung đội lên máy bay, thì các pháo đài bay B52 điều chỉnh đội hình lần cuối trước khi đến mục tiêu. Khi trận ném bom vừa kết thúc, những chiếc trực thăng nối đuôi nhau đáp xuống, thả hai trung đội xung kích rồi bay đi.

Thình lình tiếng súng đủ loại rộ lên, vang dội khắp nơi. Những biệt kích quân mới đáp đất vội nhào xuống các hố bom hoặc núp sau những thân cây mới bị B52 đốn ngã để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver chỉ điểm cho máy bay biết vị trí khẩu đại liên của đối phương ở phía trước, bên trái đội hình. Theo Shriver, khẩu đại liên này khống chế toán biệt kích của Shriver, làm họ không ngóc đầu lên được. Trong lúc đó Đại úy Cahill, Trung úy Marcantel và Trung sĩ quân y là Ernest Jamison báo cáo cũng bị đối phương áp chế. Jamison chạy ra để cứu những biệt kích quân bị thương cũng bị bắn gục tại chỗ.

Không ai có thể di chuyển được. Shriver nổi đóa, dẫn một biệt kích quân người Thượng xông lên để thanh toán khẩu đại liên. Thế là cả hai biến mất, không tìm ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừng vài thước. Đại úy Cahill thấy từng tràng đạn AK, B40 của đối phương cày nát mặt đất. Khi anh ta vừa ngóc đầu lên, thì một viên AK xuyên qua miệng, ngược lên trên làm mù một mắt. Anh ta cứ thế gục xuống. Trong một hố bom khác, Trung úy Harrigan đang điều khiển trực thăng vũ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của đối phương. Harrigan báo cáo với sở chỉ huy con số tổn thất: hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ bình tĩnh điều không nên Trung úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn, tử trận.

Đại úy O’Rourke bay trên không, rất muốn đáp xuống, nhưng chiếc trực thăng chở anh ta không lọt qua được lưới lửa của đối phương. Trung tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng Sở chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết quân lính ở dưới mặt đất đang bị tiêu diệt, nhưng đành bó tay. Cuối cùng chỉ còn Trung úy Marcantel sống sót. Earl Trabue lái luôn chiếc B57 Canberra của Úc, thuộc Phi đoàn số 2, cất cánh từ Phan Rang vào đánh giải vây, để cho trực thăng đáp xuống bốc Trung úy Marcantel, khi đó đã bị thương, cùng9 biệt kích quân người Thượng. Ba chiếc khác vào bốc được thêm 15 biệt kích quân bị thương và lấy xác Trung úy Harrigan. Cuộc hành quân kết thúc trong bi thương.


Đại tá Cavanaugh sau khi đến thăm các biệt kích quân sống sót sau cuộc hành quân, đã nói với Tướng Davision: “Nếu tôi biết kết quả sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết (!)”. Tướng Davision nhận trách nhiệm về mình trong chuyến hành quân đánh phá căn cứ của Trung ương cục miền Nam. Trung úy Marcantel bình phục, nhưng khoảng sáu tháng sau, anh ta cũng bỏ mạng trong một chuyến nhảy dù xuống căn cứ Fort Davens, thuộc tiểu bang Massachusetts. Anh ta thoát chết trong chiến trận, nhưng bỏ mạng ngay trên đất Mỹ. Còn Đại úy Cahill giải ngũ vì vết thương. Xác Ernest Jaminson tìm được ít lâu sau. Riêng “Mad dog” Shriver đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt.

Sau khi nghe báo cáo về số tổn thất của SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho MACV phân tích về thiệt hại của SOG trong vòng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả có 15 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ chết hoặc mất tích, 68 người bị thương, cộng với 10 chiếc trực thăng bị rơi. MACV cho rằng, đổi lại, biệt kích SOG “tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, diệt 1.400 quân đối phương, chỉ điểm cho máy bay đánh bom, gây 455 tiếng nổ phụ”.

Tháng 5/1969, Tổng thống Nixon ra lệnh cho B52 bí mật ném bom trải thảm lần thứ 3 trên lãnh thổ vương quốc Campuchia. Lần này, trên bản đồ có rất nhiều mục tiêu được đánh dấu. Trong đó, có căn cứ của Trung đoàn 27 của Quân đội Bắc Việt. Toán biệt kích Illinois được giao nhiệm vụ xâm nhập vào mục tiêu để kiểm định kết quả trận ném bom. Trung sĩ Ben Thompson được giao làm toán trưởng, toán phó là Trung sĩ George Bacon, Nhiệm vụ của toán là đổ bộ xuống mục tiêu sau trận đánh bom 20 phút. Nhưng chưa được nửa ngày, toán biệt kích đã phải vừa bắn, vừa chạy tháo thân. Để vớt vát danh dự, họ báo cáo với Sở chỉ huy rằng trận đánh bom được thực hiện ở mục tiêu có quá nhiều đối phương (!)


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P14



Khe Sanh, 1/4/1968. Lính Quân đội VNCH sau bức tường rào do pháo dựng lên để ngăn đối phương

Để sự kiện lắng dịu ít lâu, ngày 25/8/1969, toán biệt kích Florida do Trung sĩ Ken Worthley làm trưởng toán, đã xâm nhập vào vùng đông bắc Campuchia, nơi tình nghi có Trung đoàn 66 của Quân đội Bắc Việt xâm nhập. Thành viên của toán có 7 biệt kích quân, trong đó gồm Trung sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt kích quân của Quân đội Sài Gòn.



Toán biệt kích Florida đáp đất an toàn vào đúng ngọ (12 giờ trưa) và bắt đầu leo lên một con dốc khá cao. Lúc 2 giờ chiều, khi toán biệt kích đang ngồi nghỉ trưa trên một sườn núi thì Garcia trông thấy 2 lính Bắc Việt đang dò tìm dấu vết của họ. Anh ta bắn gục một người. Thế là đạn AK nổ tứ phía. Thì ra có cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân trong im lặng bao vây toán biệt kích mang tên bang Florida của Mỹ. Trong lúc cả toán biệt kích tháo chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK, mất ngón giữa của bàn tay trái. Anh ta phải vừa chạy vừa băng bó; Garcia phải thay anh ta mang máy bộ đàm. Chạy đến chập tối, toán trưởng Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm. Họ đã rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó.

Sáng sớm hôm sau, họ băng qua một khu rừng. Vào khoảng 9h30’ sáng, khi toán đang di chuyển trên một sườn đồi, bỗng người dẫn đầu ra dấu im lặng. Worthley bò tới trước, trông thấy 2 lính Bắc Việt trên một con đường mòn. Họ nổ súng diệt cả 2, còn biệt kích quân dẫn đường bị thương vào tay. Qua trang phục cho thấy một trong số hai đối phương là cấp chỉ huy vì đeo súng lục, có thể là sĩ quan cấp tá, còn người kia là vệ binh. Toán biệt kích lấy được túi da có đựng tài liệu của viên sĩ quan Bắc Việt. Sau khi xem xét tài liệu, SOG cho biết toán Florida đã diệt được một sĩ quan tình báo cao cấp của đối phương.

Trên đường tháo chạy, trưởng toán Worthley trúng một viên AK vào cổ, chết tức khắc, còn tất cả đều được trực thăng thả dây cứu kéo lên. Khi về đến Kontum, một chiếc “Chim Đen” C130 của SOG đến để chuyển chiếc túi da của viên sĩ quan Bắc Việt về Sài Gòn. Tài liệu trong túi da cho biết một danh sách điệp viên nằm vùng của đối phương. Tài liệu này cũng xác nhận về việc Thái Khắc Chuyên bị Đại tá Robert Rheault, cựu chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ, ra lệnh hành quyết vào tháng 5/1969. Vài tháng sau, Đại tá Rheault được tự do, ông ta đâu biết là nhờ công của toán biệt kích Florida.

Trong chuyến xâm nhập đầu tiên của năm 1970 vào Campuchia, do toán biệt kích Vermont ở Kontum thực hiện, nhảy xuống khu rừng rậm rạp thuộc tỉnh Ratanakiri vào ngày 5/1 để tìm kiếm căn cứ binh trạm của đối phương. Trưởng toán là Trung sĩ Franklin “Doug” Miller.
Người biệt kích dẫn đường chẳng may dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là tiếng nổ lớn làm 4 biệt kích quân bị thương. Trong phút chốc một nửa quân số của toán bị loại ra khỏi vòng chiến đấu và đối phương đã phát hiện ra sự hiện diện của toán biệt kích. Miller băng bó giúp cho những người bị thương, rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán biệt kích lên đồi lập vị trí phòng thủ, còn anh ta ở lại để đương đầu với đối phương.


Phước Vĩnh, chiến khu D, 15/6/1967. Lính Sư 1 Anh Cả Đỏ quan sát máy bay ném bom hỗ trợ

Vừa bắn cầm chừng, vừa lui về chỗ phòng thủ, Miller liên lạc với sở chỉ huy, yêu cầu cho toán rút quân. Sau đó anh ta dẫn toán di chuyển đến bãi trực thăng, vốn là một hố bom lớn, cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích thì bị đối phương bắn lên xối xả, đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont. Toán biệt kích nấp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dù tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller cũng bị trúng đạn AK vào tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một bãi đáp trực thăng khác. Sau đó họ được một toán cấp cứu Bright Light bốc về căn cứ an toàn. Trong trận này, Miller đã đem về cho SOG chiếc huy chương danh dự thứ 7.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P15



Điểm qua những sự kiện trên cho thấy vùng đông bắc Campuchia rất “nóng”. Ngày 9/1/1970, một toán biệt kích thuộc Sở chỉ huy Nam, do Trung sĩ nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung sĩ Richard Thomas đang trên đường di chuyển đến bãi đáp, cách vị trí toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị đối phương tấn công. Cả hai biệt kích quân Mũ Nồi Xanh bỏ mạng. Toán cấp cứu Bright Light vào giải cứu, chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem được xác hai biệt kích Mỹ ra.

Để chấm dứt những thảm họa tiếp theo, CIA đã phác thảo xong kịch bản cho một cuộc đổi ngôi và đưa ra công diễn. Ngày 11/3/1970, Lon Nol làm cuộc đảo chính lật đổ ông hoàng Sihanouk ở Campuchia, với sự hậu thuẫn của chính quyền Mỹ. Họ cho binh lính xông vào đập phá Tòa Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Hoàng thân Sihanouk phải chạy qua tị nạn bên Pháp. Lật đổ ông hoàng Sihanouk có lẽ không là giải pháp tốt cho CIA, vì ba hôm sau đảo chính, khi toán biệt kích Pennsylvania do Trung úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi tỉnh Ratanakiri, với sự tham gia của 2 biệt kích quân người Mỹ là Trung sĩ nhất John Boronski, Trung sĩ Gary Harned. Họ vẫn phải bỏ mạng. Sau 3 ngày lẩn trốn, toán biệt kích được 1 trực thăng vào bốc đi. Nhưng khi chiếc trực thăng bay lên cao khoảng hơn 30 m, thì trúng một quả B40, nổ tung. Tất cả toán biệt kích Pennsylvani cùng phi hành đoàn gồm Đại úy Micheal O’Donnell, Chuẩn úy John Hosken, Rudy Becerra và Berman Gande Fr. đều thiệt mạng, không thu hồi được xác.

Theo tin tức tình báo cho biết, Quân đội Bắc Việt chẳng những không bị tiêu diệt mà còn đang mở rộng vùng kiểm soát dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia về phía bắc và tây bắc. Họ mở rộng vùng căn cứ giải phóng rộng lớn tại tỉnh Svayriêng chỉ trong vòng mấy ngày. Trong khi một đơn vị Bắc Việt khác tiến xuống phía nam, đuổi Quân đội Lon Nol ra khỏi vùng Mỏ Vẹt. Trong vòng 2 tuần lễ, Quân đội Bắc Việt cùng quân kháng chiến Campuchia giải phóng 2 trong số 17 tỉnh của Campuchia và bao vây thêm 5 tỉnh khác, yểm trợ cho quân Campuchia Dân chủ.

Chính phủ mới bên Campuchia do Pon Pốt – Lêng Xari đứng đầu. Sau khi dựa vào Quân đội Bắc Việt và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đánh đổ Lon Nol, Campuchia Dân chủ đã thực hiện chính sách hai mặt: Đối lập về chính trị, hợp tác về quân sự; dựa vào Quân đội Bắc Việt Nam và Quân Giải phóng để chống Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Trước động thái trên, Chính phủ Mỹ quyết định bí mật gửi cho Chính phủ Campuchia dân chủ 3.000 khẩu súng AK.


CIDG người dân tộc

Trong lúc đó, tại thủ đô Phnom Pênh của Campuchia, ba Trung sĩ Troy Gilley, Ben Lyons và Charles Chapin bí mật xâm nhập để kiểm định tin tình báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp của Quân đội Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba ngày sau, họ đã được thả xuống một địa điểm gần những chiếc lán dành cho cán bộ cao cấp của đối phương. Họ gặp binh sĩ Bắc Việt di chuyển cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh họ tơi tả, sau đó gọi trực thăng bốc về an toàn. Troy Gilley về Sài Gòn khoe rằng sau chuyến đi vừa qua, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi chuyên chở bị chặn đánh có nhiệm vụ hộ tống 2 tướng lãnh Bắc Việt và cả 2 đều chết trong trận phục kích vừa qua (?).

Báo cáo của Troy Gilley sự thật quá ít, nếu không anh ta chí ít cũng được thưởng tới dăm cái huân chương (trong suốt 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam, duy nhất chỉ có Trung tướng Nguyễn Bình, nguyên Tư lệnh Nam bộ là chết trận vào năm 1951. Năm 2000, ông ta được Nhà nước Việt Nam truy phong danh hiệu AHLLVT. Còn những trường hợp khác đa số đều chết trong thời bình, do tai nạn máy bay).


Philippin, 24/10/1966

Trước áp lực của chiến trường và những khó khăn trong việc xoay chuyển tình thế, liên quân Mỹ và Quân đội Sài Gòn mạo hiểm mở cuộc tấn công sang đất Campuchia. SOG được lệnh đưa mấy toán biệt kích tại căn cứ Đà Nẵng và Kontum đến Buôn Mê Thuột hỗ trợ cho Sở Chỉ huy Nam (CCS). Đến ngày 30/6/1971, SOG chuyển 5 toán biệt kích ra Sở chỉ huy Bắc và 5 toán khác lên Sở chỉ huy Trung; các cuộc hành quân sang đất Campuchia đều giao cho biệt kích quân Sài Gòn đảm nhiệm.


HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH CỨU TÙ BINH

Quá bận rộn với công việc khai khẩn, canh nông nên mãi đến năm 37 tuổi, Michael Benge mới nhận thấy phải làm một điều gì đó còn thiếu (?). Tối 28/1/1968, anh ta leo lên chiếc xe Jeep, tự lái từ nhà lên thị xã Buôn Mê Thuột. Là nhân viên làm việc cho cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID), làm cố vấn kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến của thế kỷ XX cho người Việt Nam. Michael Benge vẫn chưa biết gì về trận Tổng công kích trong dịp Tết Mậu Thân, cho đến khi một toán người vũ trang xuất hiện, chặn xe anh ta lại và kéo ra khỏi xe.


Sân bay Phú Bài, 1/1968

Mặc dù bị trói tay, Benge vẫn cố gắng thuyết phục người chỉ huy toán quân rằng, anh ta chẳng dính dáng gì đến quân đội. Sau đó họ tháo giày để anh ta khỏi chạy trốn và đưa anh ta đi, mỗi khi đi chậm lại là mũi súng AK lại thúc vào lưng giục anh ta đi tiếp. Benge bị coi như tù binh và bị áp giải sang đất Campuchia.

Sau đó toán quân áp giải Benge nhập vào một toán tù binh khác, chừng 12 người khác, gồm cả người Việt Nam và người Thượng. Ngày hôm sau, Benge được đưa đến một trại tù binh của đối phương nằm sâu trong rừng. Tại đây anh ta chứng kiến Tòa án Nhân dân Giải phóng xử một số tù binh, theo tuyên án là biệt kích, ác ôn, có nợ máu với dân, có tội phản quốc. Những người này bị xử bắn tại chỗ. Vài ngày sau, nhân viên USAID (Benge) có thêm những bạn tù Mỹ. Trong số tù binh bị giam giữ tại trại, có cả những người khoác áo thầy tu. Đối phương cho rằng trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam có phần can dự của những người tù binh này, dù họ khoác áo gì, hay dưới danh nghĩa nào đi nữa.

Lý luận của họ càng có cơ sở khi một tù binh người Thượng trốn thoát, anh ta lập tức chạy đến một đơn vị SOG, giúp những nhà phân tích xác định vị trí trại tù binh của đối phương. Là một bộ phận của “Trung tâm thu hồi nhân mạng hỗn hợp” (JPRC), SOG ra lệnh cho 5 toán biệt kích cùng 3 đại đội thuộc lữ đoàn dù 173 của Mỹ đi tìm kiếm những công dân Mỹ bị đối phương bắt. Nhìn vào lực lượng ứng cứu, đủ thấy vị trí quan trọng của những tù binh trên, họ có giá trị rất cao nữa là khác. Bởi vậy, giải cứu tù binh là mục tiêu lớn nhất, thường xuyên nhất và lâu dài nhất của các cuộc hành quân Bright Light (giải cứu tù binh) của SOG.



Ngày 18/2/1968, SOG thả 5 toán biệt kích xâm nhập khu vực mà tay chỉ điểm người Thượng và những phân tích gia của SOG vừa đánh dấu trên bản đồ. Bốn toán không tìm được gì. Toán thứ 5 do Trung sĩ Larry Six Pack White làm trưởng toán, cùng Grant Bollenback và 4 biệt kích Thượng phát hiện được 1 hang động tại một tọa độ trên bản đồ. Đến ngày thứ 3, họ nghe có người nói tiếng Việt. Toán biệt kích bò lên quan sát. Họ thấy chừng 25 lính Bắc Việt, nhưng đối phương đã biết có biệt kích xâm nhập, đang dàn quân ra để tấn công.

Toán biệt kích bắn xối xả, khiến cho đối phương phải lui lại. Nhân đó, white chạy lên tìm những tù binh Mỹ. Anh ta chỉ đủ thời gian chụp được 1 nắm giấy tờ, nhét vào áo rồi bỏ chạy. Sau đó được trực thăng vũ trang yểm trợ, White dẫn toán di chuyển đến bãi đáp và được bốc trở về an toàn.

Qua phân tích những tài liệu, SOG cho rằng trong số những người bị bắt có 3 công dân Mỹ là Benge, Olsen và Blood. Cả 3 người đều còn sống. Tuy nhiên còn sống thì không có nghĩa là khỏe mạnh. Ba người bị xích chung lại với nhau, không được ăn uống đầy đủ, làm cho họ yếu đi để không đủ sức chạy trốn và cả 3 vẫn tiếp tục bị áp giải đến khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia. Một tháng sau ngày bị bắt, Benge ngã bệnh sốt rét, rồi Betty cũng lên cơn sốt.


Hà Nội, 1973

SOG vẫn tiếp tục tìm dấu vết của họ để giải cứu. Một tù binh Thượng khác lại trốn thoát. Dựa vào tin tức người này cung cấp, ngày 7/4/1968, SOG mở cuộc tập kích vào trại tù binh, với lực lượng tham gia gồm: Trung đội thám báo thuộc chương trình Phượng Hoàng. Họ tìm được một chiếc lán bỏ trống và dấu vết của 3 người Mỹ mới được di chuyển đi nơi khác, trước đó khoảng 2 ngày.



NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P16

Đến giữa tháng 5, hai người Thượng nữa trốn thoát, báo cáo cho biết Blood, Benge và Olsen bị giam ở một nơi cách Buôn Mê Thuột khoảng 35 dặm về hướng nam. SOG đưa một toán Phượng Hoàng vào tìm thì chạm trán với một đơn vị cấp đại đội của đối phương, phải bỏ chạy. Năm ngày sau, SOG thả hai toán biệt kích vào tìm, nhưng đối phương đã di chuyển trại giam tù binh đến nơi khác.



Mùa mưa năm 1968, Blood chết trong trại tù binh vì bệnh sưng phổi. Benge và Olsen bị thiếu dinh dưỡng, rụng răng, rụng tóc, cộng thêm bị ghẻ ngứa lâu ngày không khỏi. Cuối tháng 11/1968, SOG thả toán biệt kích gồm 15 người từ Sở chỉ huy Nam (Buôn Mê Thuột) đi tìm trại tù binh, theo tin tức tù vượt ngục cung cấp. Họ đụng độ với Quân Giải phóng trước khi đến trại giam. Đối phương lại di chuyển trại giam đến nơi khác.

Trong một lần chuyển trại, sức khỏe của Betty ngày càng yếu, đi không nổi. Benge đến gặp người quản trại xin thuốc cho Betty, nhưng lấy đâu ra thuốc. Ngay chính những người quản tù còn không có thuốc thì lấy đâu ra thuốc cho tù binh. Vì vậy, ba hôm sau, Betty Ann Olsen qua đời. Riêng Benge sau khi di chuyển vào lãnh thổ Campuchia thì không ai biết tin tức gì nữa. Chỉ biết rằng tin tức về Benge sau này được chính Benge kể lại rằng, nhờ ăn rễ cây, côn trùng mà Benge mới sống đến ngày được trả tự do năm 1973. Ít ra thì anh ta cũng đạt được mục tiêu của mình là làm được một điều gì đó đáng nhớ.


Betty Ann Olsen, y tá, chọn cuộc sống độc thân để đến phục vụ những nơi có chiến tranh

Trong cuộc chiến Việt Nam, việc giải cứu tù binh gặp rất nhiều trở ngại. Ngay như lĩnh vực ngoại giao, nhiều khi đã gây rất nhiều rào cản cho các kế hoạch vượt biên giải cứu tù binh. Ngày 5/9/1968, một điệp viên ngầm cho biết, có hai tù binh Mỹ bị giam ở khu vực Thường Thới, cách Sài Gòn khoảng 100 dặm về hướng tây nam. SOG đã lập kế hoạch hành quân giải cứu tù binh đến hai lần, nhưng cả hai đều bị Washington bác bỏ vì tin tình báo không đầy đủ và khu vực dự định hành quân lại nằm bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia. Ngày 21/9, Washington bác bỏ kế hoạch giải cứu số tù binh bị giam giữ tại vùng Mỏ Vẹt, kể cả những trại tù binh ở Lào. SOG tìm cách quay sang mua chuộc bằng tiền mặt để đem được tù binh về, với cái giá mỗi tù binh là 5.000 đồng. Đại úy Fred Caristo, một sĩ quan trong Ban tìm kiếm hỗn hợp đã nhiều lần xin gặp đại diện phía Mặt trận Dân tộc giải phóng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long để điều đình về việc chuộc 5 tù binh Mỹ, với số tiền lót tay giao dịch là 25.000 đồng. Nhưng đó chỉ là câu chuyện phiếm mà thôi.

Có một sự kiện chắc đã được lưu trong hồ sơ của CIA. Đó là việc SOG cử một sĩ quan xin gặp đại diện của một trại tù binh để thương lượng về việc chuộc 21 tù binh Mỹ bị giam giữ ở khu vực gần Tây Ninh. Ngày 11/11/1970, phái viên Ban Tìm kiếm hỗn hợp trao cho viên sĩ quan đại diện Quân Giải phóng bức thư của Tướng Abrams, Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam, xác định rõ số tiền chuộc 21 tù binh Mỹ. Người Mỹ quen giải quyết mọi việc bằng tiền. Nhưng có điều họ không hiểu cách xử sự ấy sẽ không đem lại kết quả. Tháng 7/1969, một gã chiêu hồi ở gần Chu Lai, Quảng Nam cho biết về một bệnh viện của đối phương trong đó có giam một tù binh Mỹ da màu. Qua phân tích, SOG quả quyết đúng quân nhân đó là Larry Aiken, bị bắt ngày 13/5/1969. Gã chiêu hồi đồng ý dẫn đường cho lực lượng SOG tập kích vào quân y viện, nằm cách Chu Lai khoảng 20 dặm về hướng tây nam. Đơn vị SOG cấp tốc tổ chức cuộc hành quân, do trực thăng của Sư đoàn Dù 101 yểm trợ, theo chương trình Phượng Hoàng, cộng thêm một đơn vị của Quân đội Sài Gòn làm nút chặn.



Ngày 10/7, liên quân Mỹ - Việt theo chỉ điểm của gã chiêu hồi mở cuộc tấn công vào bệnh viện của đối phương, nằm ẩn trong một thung lũng rậm rạp. Chỉ để giải thoát một quân nhân da màu Mỹ, họ đã đem cả một đội quân cơ động bằng máy bay tấn công vào một bệnh viện. Mà ở đó chỉ có những thầy thuốc và thương bệnh binh. Không biết chuyện tàn sát các thương bệnh binh và thầy thuốc ra sao, vì không thấy đề cập đến vấn đề này trong tài liệu. Chỉ biết rằng họ đã tìm thấy người quân nhân da màu Larry Aiken. Khi liên quân Mỹ - Việt tấn công vào bệnh viện nọ, anh ta vẫn còn sống. Nhưng sau đó, mặc dù các bác sĩ đã đem hết khả năng ra cứu chữa, Larry không hề ra khỏi tình trạng mê man và 10 ngày sau đó, anh ta chết. Có lẽ kết cuộc lần này hẳn CIA cũng không mong muốn.

Trở lại những vấn đề ngoại giao. Kể từ ngày 30/6/1970, không một toán biệt kích nào của lính Mũ Nồi Xanh làm trưởng toán được phép vượt biên sang Campuchia. Những cuộc hành quân vượt biên qua Lào còn khó khăn gấp bội, không có bất cứ cuộc hành quân giải cứu tù binh nào ở bên Lào của SOG được chấp thuận.


Trong khi đó, số quân nhân bị mất tích ngày càng gia tăng, đặc biệt trên lãnh thổ Lào. Ngày 31/7/1969, một toán biệt kích gồm 6 người do Đại úy Dennis Neal làm trưởng toán, xâm nhập sâu vào lãnh thổ Lào khoảng 20 dặm gần đường 921. Ngay khi đáp đất, toán biệt kích đã bị tấn công. Lần liên lạc cuối cùng của toán, nghe rõ tiếng cầu cứu trên máy truyền tin: “Cấp cứu! Cấp cứu! Chúa ơi! Nhanh lên!”. Toán ứng cứu Bright Light được phái đến tìm, nhưng không tìm thấy một xác chết hay một dấu hiệu nào khác. Ngày 13/11/1969, một toán biệt kích khác do Trung sĩ Ronald Ray làm trưởng toán, toán phó là Trung sĩ Randy Suber cũng bị xóa sổ trong khu vực cách thung lũng A Sầu 20 dặm về hướng tây đường 923. Số phận toán biệt kích do đối phương định đoạt.

Thượng sĩ Tony Deluca, một trưởng toán biệt kích thuộc Sở chỉ huy Nam ở Buôn Mê Thuột đến làm việc tại Ban Tìm kiếm hỗn hợp, đã xác nhận năm 1969 có 104 quân nhân Mỹ bị mất tích ở Lào, tính đến ngày 1/9/1970 thì có thêm 59 người, nâng tổng số lên 327 người. Trong số đó, có 10 người được Quân đội Bắc Việt trả tự do.

Ngày 25/10/1970, toán biệt kích Fer De Lance bị tấn công và tiêu diệt trên đất Lào, mất thêm một biệt kích có hạng là trưởng toán David Davidson, vốn là bạn thân của Deluca. Trung sĩ David “Babysan” Davidson đã làm trưởng toán được 3 năm. Anh ta rất nổi tiếng trong số các giai thoại về lực lượng SOG. Tiếng tăm của Davidson có lẽ chỉ thua Jerry “Mad Dog” Shriver. Một trưởng toán biệt kích khác là Sonny Franks nhận xét: “Anh ta đi rừng rất giỏi, bất chấp mọi nguy hiểm. Anh ta luôn dẫn dắt được toán trở về”.


Giống như chuyến xâm nhập định mệnh, “Babysan” không những không đưa được toán trở về, mà thậm chí anh ta còn mất mạng.

Chuyện là vào một buổi chiều, vào tháng 10/1970, khi toán Fer De Lance đang hoạt động tại một rặng núi ở phía nam đường 922 của Lào, cách thung lũng A Sầu 10 dặm về hướng tây. Máy bay trinh sát “Covey” (chó biển) bao vùng nghe “Babysan” báo cáo Quân Bắc Việt đang truy lùng họ. Thời tiết hôm đó có nhiều mây che phủ và chiếc “Covey” phải bay trở về lấy thêm xăng. Khi chiếc “Covey” quay trở lại, thì “Babysan” đã ăn đạn, rơi xuống vực. Toán phó là Trung sĩ Fred Gassman báo cáo đang bị đối phương bao vây tứ phía. Ngay sau đó, báo cáo thêm là anh ta bị thương và máy vô tuyến cũng trúng đạn nên hỏng nặng.


David "Babysan" Davidson

Đêm hôm sau, Trung sĩ Frank Burkhart, một cựu trưởng toán của hai toán biệt kích Miter, anh ta là bạn thân của “Babysan”, ngồi uống rượu trong một quán bar ở Sài Gòn, anh ta nói với người bạn ngồi đối diện là Tony Deluca, rằng anh ta muốn dẫn một toán ứng cứu Bright Light đi tìm xác “Babysan”. Nhưng Deluca xua tay, lắc đầu: “Babysan đã chết, mình phải lo cho người sống đã”. Để cho Burkhart đỡ buồn, Deluca kể lại một câu chuyện. Đại để là vào khoảng cuối tháng 9, qua khai thác một hàng binh của Quân Bắc Việt, SOG biết rằng có một trại tù binh giam giữ 12 tù binh Mỹ. Theo đó, ngày 3/10, SOG thả một toán biệt kích Earth Angle, gồm toàn hàng binh Bắc Việt, tìm kiếm trại tù binh. Họ đụng độ với đơn vị tuần tiễu của đối phương, đành phải rút lui. Qua không ảnh xác nhận vị trí trại tù binh của đối phương là có thật. Phòng Nhì Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) đã gửi một tấm ảnh đến Phnôm Pênh để gã hàng binh Bắc Việt xác định. Gã ta quả quyết đúng, qua máy dò sự thật. Gã ta sau đó tình nguyện dẫn toán biệt kích đi giải cứu, nhưng kế hoạch bị bác bỏ. Chính quyền Washington không muốn có sự hiện diện của bất kỳ quân nhân Mỹ nào trên đất Campuchia. Deluca nói rằng anh ta có ý định riêng để thực hiện.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P17

Sáng hôm sau, Thượng sĩ Deluca không đến Bộ chỉ huy SOG để làm việc. Anh ta mặc thường phục đón taxi vào sân bay Tân Sơn Nhất, mua vé của Hãng hàng không Thái Lan đi Bangkok, với một túi xách tay chứa mấy món đồ bằng vàng trị giá hàng ngàn dollar. Đến Bangkok, Deluca tìm đến một phụ nữ Lào bí ẩn, người mà anh ta biết qua tin tình báo. Người phụ nữ này quen biết với giới trung lưu Lào.


George Clark tại núi Cô Tô, 4/1969

Với sự giúp đỡ của chị ta, Deluca đón xe lửa đi về hướng đông bắc đến biên giới Thái – Lào, gần thị xã Savanakhet. Một sĩ quan SOG cho biết: “Đó là lần cuối cùng có người trông thấy Deluca. Anh ta xâm nhập vào đất Lào một mình đi tìm tù binh”.

Vài tuần sau, Thiếu tá Ed Lesesne được mời đến căn cứ không quân Nakhon Phanom ở đông bắc Thái Lan để nhận diện một tử thi. Khi kéo tấm vải phủ trên tử thi ra, Lesesne nhận diện đúng là xác của Deluca. “Anh ta bị bắn 8 hay 9 viên đạn. Không biết có phải bị hành quyết hay không, vì họ đã rửa xác cho Deluca”. Trung tá Radke coi cái chết của Deluca là “bi kịch kết thúc”.

Cùng vào thời điểm trên, những cuộc hành quân Bright Light giải cứu tù binh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam cũng gặp nhiều trở ngại, làm SOG bị mất mặt không kém như ở Lào. Nhiều cuộc tập kích cứu tù binh do những toán biệt kích biển (SEAL) như toán 1, toán 2, phối hợp cùng SOG thực hiện. Trong 3 năm 1969-1971, SEAL làm nhiều cú ngoạn mục ở vùng ĐBSCL. Ngày 8/11/1971, SEAL xâm nhập nhiều nơi để tìm kiếm dấu vết Trung sĩ Gerasimo Arroyo Baez, bị mất tích từ ngày 24/3/1969, anh ta được 6 cựu tù binh Quân đội Sài Gòn nhận diện khi trốn thoát khỏi trại tù binh, nằm cách mũi Cà Mau khoảng 50 dặm.



Toán biệt kích cải trang giống như Quân Giải Phóng, từ chiến hạm Washtenaw County họ xuất phát bằng thuyền cao su cặp bờ, cách trại tù binh khoảng 200 thước, gặp gã hàng binh cho biết: trại tù binh đã dời đi nơi khác vì 6 tù binh Quân đội Sài Gòn đã trốn thoát nên đối phương sợ họ chỉ điểm. Toán Biệt hải bắt sống được một tù binh, rồi rút êm.

Tại Sại Gòn, SOG mua chuộc gã tù binh, đặt trước mặt anh ta 5.000 USD với điều kiện đưa được Arroyo Baez về, bằng không SOG sẽ thả truyền đơn trên khắp vùng châu thổ Cửu Long tuyên truyền rằng anh ta làm gián điệp cho SOG và chắc chắn đối phương sẽ làm thịt anh ta. Sau đó, toán Biệt hải đưa gã ta trở lại nơi bị bắt, bắn vài phát súng chỉ thiên, dàn cảnh để cho gã tù binh trốn thoát. Nhưng kết cục sau đó, gã tù binh cũng biến mất luôn (!). Phần kết câu chuyện là hài cốt Arroyo Baez được trao cho Chính phủ Mỹ vào năm 1995, nhưng không giải thích tại sao anh ta chết.


Một lần khác, SOG cứu được 15 tù binh, nhưng không một ai là người Mỹ. Thêm một nỗ lực nữa trong việc giải cứu tù binh, diễn ra vào đầu tháng 5/1971. Khi bộ phận kiểm thính Mỹ nhận được một công điện của Quân đội Bắc Việt cho biết, một tù binh Mỹ đã trốn khỏi trại tù binh ở vùng Tchepone của Lào và đang tìm đường trở lại biên giới Lào – Việt. Lập tức máy bay thám thính bay đi tìm dấu vết người tù binh Mỹ trong phạm vi 6 dặm xung quanh Tchepone.


Toán biệt kích với trang phục giống người bản xứ tại Lào, 1973

Một chiếc máy bay điều không tiền tuyến (FAC) trông thấy dấu hiệu nhiều viên đá đặt lên nhau, SOG cho rằng đó là ký hiệu của Trung úy Jack Butcher, từng đóng quân trong sân bay Đà Nẵng. Chiếc máy bay thám thính OV10 do anh ta lái bị bắn rơi gần Tchepone vào ngày 24/3. SOG đệ trình kế hoạch hành quân qua Lào để giải cứu Butcher và được trả lời cho phép đưa một đơn vị lớn, quân số lên đến 365 người với điều kiện: Trước hết, phải tìm cho ra Butcher đã.

Máy bay thám thính của SOG bao vùng, thả xuống hai túi mưu sinh, hy vọng Butcher sẽ lấy được. Thêm một chiếc FAC có Đại tá Bill Page, sẵn sàng ra lệnh triển khai kế hoạch ứng cứu Fulton, nếu tìm ra Trung úy Butcher. Khu vực hành quân vốn là địa bàn rất nguy hiểm, bởi cuộc hành quân Lam Sơn 719 vừa chấm dứt, với sự hiện diện của 9 sư đoàn chính quy của Quân đội Bắc Việt (có lẽ con số này được CIA đưa ra, để làm nhẹ đi tổn thất của Mỹ và Quân đội Sài Gòn trong cuộc hành quân Lam Sơn 719). Ngày 9/5, chiếc trực thăng CH53 Jolly Green từ Nakhon Phanom, Thái Lan, đưa toán cấp cứu Bright Light đến vị trí đã xác định để tìm Butcher. Họ thấy dấu bàn chân to tướng của Butcher, nhưng chạm trán đối phương, đành phải rút quân về lại căn cứ không quân Nakhon Phanom của Thái Lan.

Trước đó, cũng tại vùng Tchepone, SOG đã cứu được viên Trung úy phi công Larry Parsons của Thủy quân lục chiến Mỹ. Anh ta từng trốn trong rừng 18 ngày. Nên SOG vẫn nuôi hy vọng và tiếp tục tìm kiếm dấu vết Butcher thêm 10 ngày nữa. Cho đến khi kiểm thính nhận được bức điện văn cho biết Quân đội Bắc Việt đã bắt lại được Butcher thì cuộc giải cứu mới thật sự chấm dứt.


Nguyễn Thị Dậu & Phan Cẩm Phi, 2 bóng hồng thuộc binh chủng Dù, Quân đội VNCH, trong một buổi huấn luyện

Nằm trong chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh”, hai sư đoàn còn đầy đủ quân số tại Việt Nam là Sư đoàn kỵ binh bay số 1, ở gần Sài Gòn để bảo vệ Trung tâm tiếp vận Quân đội Mỹ và Sư đoàn dù số 101, nằm ở ngoại ô Đà Nẵng. Nhằm giải cứu tù binh, SOG lập kế hoạch và yêu cầu lập hai trung đội vì quân số Mỹ tham chiến ở Việt Nam đã giảm. Tháng 5/1971, kế hoạch giải cứu tù binh được Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam là Tướng Abrams phê duyệt. Tháng 6/1971, hai trung đội xung kích được thành lập và đặt tên là Trung đội thám báo 1 và 2.

Trung đội 2 đóng tại Đà Nẵng, Trung đội 1 đóng ở Kontum. Mỗi trung đội gồm 3 toán biệt kích. Toán California do Donald Davidson làm trưởng toán; toán Hawaii do Ls Dover làm chỉ huy; toán West Virginia do Larry Kramer làm trưởng toán.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P18


HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH TRONG MẬU THÂN 1968

Đầu năm 1968, tại Khe Sanh tổ chức một trại biệt kích. SOG sử dụng trại này làm căn cứ hành quân tiền phương. Với vị trí này, Khe Sanh trở thành tiền đồn bảo vệ phía tây của khu phi quân sự. Trong căn cứ này có tới 6.000 quân thuộc Trung đoàn 26 Thủy quân lục chiến Mỹ và Tiểu đoàn 37 Biệt động quân của Quân đội Sài Gòn. Theo tin tức tình báo thì bên ngoài có sự hiện diện của 20.000 Quân đội Bắc Việt. Do đó, mọi hỏa lực đều tập trung xung quanh căn cứ như pháo binh, không quân, kế cả máy bay chiến lược B52 yểm trợ ngày đêm. Sự có mặt, cũng như các cuộc hành quân vượt biên của SOG đều được bảo mật, không ai biết.




Trong trại biệt kích Khe Sanh, SOG có 50 biệt kích quân Mỹ và khoảng 500 dân sự chiến đấu. Họ đều sống dưới hầm y như binh sĩ Thủy quân lục chiến Mỹ. Bình quân mỗi ngày chịu đựng 1.500 quả đạn đại bác, súng cối của đối phương bắn vào căn cứ. Bên ngoài Khe Sanh, trên những ngọn đồi, tử thần luôn rình rập. Những toán biệt kích SOG đều xuất phát từ căn cứ hành quân tiền phương 1 (FOB 1) ở Phú Bài, có nhiệm vụ xâm nhập khu vực dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tìm mục tiêu, chỉ điểm cho máy bay oanh tạc; đặt máy nghe trộm điện thoại, máy do thám điện tử...

Tại phía tây căn cứ Khe Sanh, dọc theo biên giới Việt – Lào, những toán biệt kích SOG khác xuất phát từ “cửa hậu” của SOG là sân bay Nakhon Phanom. Tại đây, SOG có 7 nhân viên làm việc với Phi đoàn 21 “Pony” hành quân đặc biệt thuộc Không lực Mỹ. Một đơn vị có quan hệ mật thiết với SOG nữa là Phi đoàn 20 Green Hornets. Từ tháng 1/1967, “Pony” yểm trợ cho các toán biệt kích SOG hoạt động ngoài lãnh thổ miền Bắc Việt Nam, cũng như yểm trợ các hoạt động của CIA khi họ chuẩn bị đến cuối năm thả những toán biệt kích của SOG xâm nhập vào đất Lào. Vì vậy, căn cứ Nakhon Phanom vủa Thái Lan ngày càng trở nên quan trọng. Nhất là từ đầu năm 1968, khi trực thăng của SOG không thể hoạt động được ở sân bay bên trong căn cứ Khe Sanh

Một trong những mục tiêu thường xuyên của SOG trên đất Lào là rặng núi Cơ Rốc, cao 549m, ở hướng tây Khe Sanh. Ở đó Quân Bắc Việt đào hầm, đục đá, khoét núi làm đường chuyển quân. Ngày 12/1/1968, toán biệt kích Indiana bị phục kích trên một sườn núi, Họ chạy táo tác, thất lạc nhau. Toán phó là Trung sĩ Jim Cohron, cùng hai biệt kích Nùng tách rời khỏi toán. Số còn lại chạy đến một con đường mòn, tìm cách liên lạc với Cohron không được nên tự thoát thân, còn nhóm Cohron thì bị mất tích.
CIA cho rằng, toán Indiana chạm trán với Trung đoàn Đồng Nai của Quân đội Bắc Việt. Hệ thống kiểm soát thông tin bắt được tần số của đối phương cho biết Cohron đã bị bắt. Nhưng cho đến nay, số phận người biệt kích Mũ Nồi Xanh, quê ở tiểu bang Iowa ấy vẫn chỉ là dấu hỏi.

Cách căn cứ Khe Sanh 5 dặm về hướng tây, trong chân ngọn núi Cơ Rốc bên kia biên giới là trại biệt kích Làng Vây, do Đại úy Frank Willoughby chỉ huy. Đầu năm 1968, dưới áp lực của Quân đội Bắc Việt, 282 biệt kích quân người Thượng được tăng cường cho đại đội biệt kích thượng và lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ.


Daklak, 12/1968

Bộ phận còn lại của toán Indiana đến trại biệt kích Làng Vây vào một buổi tối cuối tháng 1/1968, sau nhiều ngày bị đối phương săn đuổi trên ngọn núi Cơ Rốc. Trưởng toán Rick Bayer thông báo cho hạ sĩ quan Bill Craig rằng toán biệt kích Indiana trông thấy dấu xích xe tăng của Quân đội Bắc Việt. Ngoài ra, khi đi ngang qua sông Sêkong lúc trời sập tối, toán biệt kích trông thấy Quân Bắc Việt thăm dò mực nước sông và đánh dấu bãi chuẩn bị hành quân vượt sông. Bayer không hoài nghi chuyện Quân đội Bắc Việt sẽ đem xe tăng vào chiến trường miền Nam.

Khi được đưa vào Sài Gòn để báo cáo với Trung tâm, Trung sĩ Bayer bị cười nhạo và cho rằng Bayer nằm mơ hay nói dóc (!). Cấp chỉ huy của anh ta ở căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài (FOB 1) là Thiếu tá Ed Rybat cũng mất mặt không kém: “Chúng tôi gửi báo cáo về, họ trả lời rằng không có gì hết, đó là dấu xe ủi đất!. Tôi từng phục vụ trong đơn vị thiết giáp trước đây, tôi biết thế nào là dấu xích xe tăng. Đó là dấu thiết vận xa lội nước PT 76 của đối phương”.


Tại Sài Gòn, chỉ huy trưởng SOG là Đại tá Singlaub tin rằng Quân đội Bắc Việt chuẩn bị xe tăng để tấn công. Ngược lại, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) bỏ ngoài tai lời cảnh báo của ông ta.

Thế rồi, rạng sáng ngày 6/2/1968, binh sĩ Thủy quân lục chiến trong giao thông hào phía tây căn cứ Khe Sanh nghe tiếng động cơ theo gió đưa tới, nghe như tiếng máy cưa(?). Không phải! Là xe tăng! Mặt đất trại biệt kích Làng Vây bỗng rung chuyển khi 11 chiếc xe tăng PT 76 cùng một tiểu đoàn bộ binh Bắc Việt được pháo 152 ly yểm trợ tràn vào trại. Đại bác 76 ly trên xe tăng bắn sập các công sự, lô cốt bên trong. Hơn một nữa lực lượng dân sự chiến đấu Thượng chết ngay tại trận. Lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh Mỹ sử dụng súng cối 105 ly đối phó với xe tăng PT 76.

Chỉ huy trưởng SOG thông báo về vụ tấn công trại biệt kích Làng Vây cho Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhưng viên tướng trưởng phòng Nhì của Bộ Tư lệnh vẫn một mực không tin và buông một câu tỉnh queo: “Làm gì có xe tăng ở Việt Nam (!)”. Trong khi đó, trận đánh Làng Vây vẫn đang tiếp diễn, SOG trong Khe Sanh chuyển lời cầu cứu của trại biệt kích cần viện binh. Đại tá David Lawnds, chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh từ chối: “Tôi không muốn hy sinh tính mạng người Mỹ”. Biệt kích SOG kể rằng: “Ông ta liếc qua chúng tôi chớp nhoáng như máy quang tuyến, rồi khước từ một cách dã man”.

Thiếu tá Jim Staton, sĩ quan điều hợp pháo binh của Thủy quân lục chiến trong căn cứ Làng Vây đã xác định: “Đúng vậy, chúng tôi có thỏa thuận rằng sẽ đi ứng cứu căn cứ Làng Vây trong trường hợp căn cứ này có thể bị dứt điểm. Tình trạng chiến đấu trong căn cứ đã xuống thấp, không ai đảm bảo vấn đề an toàn cho họ”.

Đã 2 lần trong đêm, viên sĩ quan tùy tùng của tướng Westmoreland phải đánh thức ông ta dậy để báo tin trại biệt kích Làng Vây bị tấn công. Đại tá Francis Kelly, chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ yêu cầu Tướng Westmoreland gửi quân tiếp viện cho Làng Vây. Nhưng Tướng Westmoreland rất ngần ngại khi ra lệnh cho Bộ Tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ. Cá nhân Westmoreland xem chuyện từ chối không tiếp viện cho trại Làng Vây là do mâu thuẫn giữa Bộ Tư lệnh MACV của ông ta với Bộ Tư lệnh thủy quân lục chiến của Mỹ. Ông ta ra lệnh triệu tập một cuộc họp với các vị tướng lĩnh thủy quân lục chiến Mỹ tại Đà Nẵng vào sáng hôm sau

Trong lúc đó, tại trại biệt kích Làng Vây, Quân đội Bắc Việt đã hoàn toàn làm chủ tình thế. Sĩ quan Quân đội Bắc Việt ra lệnh cho tất cả binh sĩ lực lượng biệt kích Sài Gòn và Mỹ mở cửa hầm chỉ huy và ra đầu hàng. Sĩ quan biệt kích Sài Gòn ngoan cố và bị bắn tại chỗ vì tội phản quốc. Quân đội Bắc Việt dùng thuốc nổ phá các cửa hầm, sức ép bộc phá làm 8 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh bất tỉnh.

Cùng thời điểm trên, Tướng Westmoreland đến Đà Nẵng, ra lệnh cho Trung tướng Robert Cushman cung cấp trực thăng lập tức đưa một đơn vị SOG của căn cứ Khe Sanh đến Làng Vây ứng cứu. Sau này, Tướng Westmoreland mới biết mệnh lệnh của ông ta không được thi hành. Tướng Westmoreland viết: “Đó là điều xảy ra trong thời gian tôi phục vụ tại Việt Nam. Chuyện đó làm tôi muốn xin về hưu”.

Tại Khe Sanh, thiếu tá George Quamo, Thượng sĩ Charles Skip Minnicks có thể nhìn thấy khói bốc lên từ trại biệt kích Làng Vây. Quamo nói về sự nguy hiểm đang chờ đợi họ, rồi hỏi: “Ai muốn đi?”. Một tá lính Mũ Nồi Xanh xách tiểu liên CAR15, tập hợp 30 biệt kích Nùng, Thượng rồi leo lên trực thăng thủy quân lục chiến ra đi.

Sự thờ ơ của thủy quân lục chiến đã tác động đến viên phi công lái trực thăng, anh ta cũng không nhiệt tâm đi cứu. Từ trên máy bay nhìn xuống, họ thấy cảnh xe tăng cháy, doanh trại đổ nát. Mấy tay phi công CH46 kinh hoàng, họ lái máy bay lòng vòng trên không. Cuối cùng, Thiếu tá Quamo phải ra lệnh “vào!” thì họ mới hạ cánh.

Xuống tới đất, toán biệt kích SOG chia ra lục soát các hầm hào, công sự phòng thủ để tìm người sống sót. Quân Bắc Việt đã ngưng tấn công và rút ra xung quanh Làng Vây để đề phòng máy bay Mỹ oanh kích. Hầu hết các quân nhân Mỹ sống sót nhờ Trung sĩ nhất Eugene Ashley. Anh ta chết vào sáng hôm đó, trong những đợt phản công đẩy lui quân Bắc Việt ra khỏi Làng Vây. Anh ta được truy tặng huân chương danh dự cao nhất của Chính phủ Mỹ. Một số lính Mũ Nồi Xanh thoát chết nhờ viên tài xế lái chiếc xe Jeep của biệt kích Sài Gòn là Thiếu úy Quý đã xông vào trại, chở họ đi.

Toán biệt kích SOG gom tất cả những biệt kích Mỹ sống sót lại và với khả năng của họ, đem theo những biệt kích quân Thượng bị thương ra bãi đáp chờ trực thăng bốc về. Khi máy bay ứng cứu cất cánh, trưởng toán Alabama John Allen còn trông thấy một lính Mỹ chạy ra bãi đáp, vẫy tay cầu cứu, nhưng họ không thể quay trở lại, anh ta bị bỏ rơi cho số mệnh. Tay biệt kích Mỹ hẩm hiu ấy tên là Dennis Thompson, bị bắt làm tù binh và được trả tự do 5 năm sau đó. Thiếu tá Quamo đã giải cứu được 14 trong số 24 biệt kích quân Mỹ ở trại biệt kích Làng Vây, trong đó có một người bị thương.

Ngoài công ứng cứu, giải vây trong trận Khe Sanh, biệt kích SOG còn có công thu thập tin tức tình báo trên chiến trường Lào. Trong năm 1968, họ đã phát hiện ra môt căn cứ lớn, có sở chỉ huy, kho vũ khí, đạn dược của đối phương gần dãy núi Trường Sơn. Trận ném bom B52 Arc Light được lệnh tiêu hủy căn cứ này. Kết quả gây ra nhiều tiếng nổ phụ trong vòng hai giờ đồng hồ. Trong hồi ký của mình, Tướng Westmoreland tin rằng trận đánh bom B52 đã trúng vào Sở chỉ huy đầu não của đối phương. Trong trận bao vây Khe Sanh, có lẽ hệ thống thông tin của đôi phương bị gián đoạn khoảng 2 tuần lễ, dẫn đến sự rối loạn trong chỉ huy. Do đó, Quân đội Bắc Việt không mở trận tấn công tiếp vào căn cứ Khe Sanh trong Tết Mậu Thân.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P19



Cuối tháng 3/1968, trong khi Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ bắt đầu hành quân giải tỏa áp lực của đối phương xung quanh căn cứ Khe Sanh, thì toán Asp xâm nhập khu vực cách Khe Sanh 25 dặm về hướng tây bắc, để theo dõi sự rút lui của các đơn vị Quân đội Bắc Việt. Ai dè, toán biệt kích lại bất ngờ bị tấn công. Ngoài trưởng toán là Trung sĩ nhất George Brown, Asp còn có Trung sĩ Charles Huston và alan Boyer.



Một chiếc Kingbee định đến cứu George Brown và Charles Huston, nhưng bị hỏa lực đối phương khống chế, không làm gì được. Một chiếc Kingbee khác phát hiện Alan Boyer, bèn thả thang dây xuống cứu anh ta. Rủi thay, đạn bắn đứt dây thang, anh này rơi xuống giữa đội hình Quân đội Bắc Việt. Thế là cả toán biệt kích Mũ Nồi Xanh đều bị xóa sổ.
Đó chỉ là con số tổn thất khiêm tốn so với 205 lính thủy quân lục chiến Mỹ bỏ mạng trong 77 ngày căn cứ Khe Sanh bị bao vây.

Thiếu tá Quamo, chỉ huy cuộc giải cứu trại biệt kích Làng Vây, được chính máy bay của SOG chở về Đà Nẵng, nhưng chiếc máy bay cũng biến mất luôn. Có lẽ vì thời tiết xấu. Chỉ biết rằng hài cốt của Quamo mãi 6 năm sau (1974), mới tìm được. Phải mất vài tuần, sau khi căn cứ hành quân tiền phương (FOB) ở Khe Sanh đóng cửa, SOg mới dời sang trại biệt kích Mai Lộc ở đông bắc Khe Sanh.

Khi các cuộc chiến xung quanh Khe Sanh lắng dịu dần, các toán biệt kích SOG lại vượt biên xâm nhập Campuchia để do thám xem sau cuộc tổng công kích, đối phương có rút sang đó không?

Ngày 2/5/1968, toán biệt kích do Trung sĩ nhất Leroy Wright làm trưởng toán đã xâm nhập vào vùng Lưỡi Câu. Thành viên của toán còn có Trung sĩ Lloyd “Frenchie” Mousseau, Brian O’ Conner cùng 9 biệt kích Nùng.

Toán biệt kích xuất phát từ căn cứ Quản Lợi vào một buổi sáng. Trung sĩ nhất Roy Benavidez là bạn của Leroy Wright đã ra tiễn đưa, với lời chúc thành công. Thế nhưng, khi toán đáp đất, đã chạm trán với đối phương buộc phải quay trở lại trong lúc đối phương đuổi sát nút và sử dụng hỏa lực kiềm chế không để biệt kích quân ngóc đầu dậy; đồng thời bắn đuổi những chiếc trực thăng cấp cứu ra chỗ khác. Một trực thăng vũ trang trúng đạn, rơi xuống thành đống sắt vụn.

Đối phương tăng quân bao vây toán biệt kích đang nằm chịu trận dưới trận mưa của các loại hỏa lực như súng cối, B40, AK47... Bỗng một loạt đạn AK trúng đầu Wright, anh ta chết ngay tức khắc. Mousseau và O’Connor cùng bị nhiều vết thương. Còn tất cả những biệt kích quân Nùng đều trúng đạn, kẻ chết, người bị thương nằm la liệt. Toán biệt kích chỉ còn nước chờ bị xóa sổ.



Cùng thời điểm trên, tại một túp lều dã chiến trong căn cứ hành quân tiền phương Quản Lợi, Roy Benavidez lắng nghe những lời thoại qua máy truyền tin, điện đàm giữa các phi công trực thăng vũ trang và phi công lái máy bay quan sát điều hành không quân yểm trợ (FAC). Roy Benavidez rất sốt ruột, lo lắng cho các chiến hữu của mình. Leroy Wright, Mousseau, Brian O’Connor và cả những biệt kích Nùng đều lâm nạn. Một lữ đoàn của Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ” đang hành quân gần đó, nhưng họ không được phép vượt biên sang Campuchia. Một toán cấp cứu Bright Light cũng không có. Phải làm gì đây? Roy Benavidez đứng ngồi không yên.

Bị mất nhiều máu, Brian O’Connor đuối dần. Anh nghe như tiếng trực thăng đang đến, nhưng không di chuyển được. Khi chiếc trực thăng vừa chạm đất, Roy Benavidez xách túi đựng dụng cụ y tế nhảy xuống và chạy thật nhanh vào bụi rậm, nơi các biệt kích SOG nằm la liệt. Roy tình nguyện một mình đi cứu toán biệt kích. Đối phương trông thấy chiếc trực thăng đáp xuống liền bắn ra tới tấp. Một viên trúng vào đùi Roy, anh ta vẫn tiếp tục chạy, không dám dừng lại. Vào đến vị trí toán biệt kích, Roy quan sát thật nhanh xung quanh: Wright đã chết, Mousseau trúng đạn vào đầu, nằm thẳng cẳng nhưng chưa chết, O’Connor bị thương nhưng vẫn còn bò lết được. Roy Benavidez băng bó cho bạn, chia số đạn còn lại cho những người bị thương để bắn cầm cự. Roy lãnh thêm 1 viên AK nữa vào đùi phải trong lúc chỉ điểm cho trực thăng oanh kích và để đưa những người sống sót ra.

Khi chiếc trực thăng đã hạ cánh, Roy đưa khẩu AK cho O’Connor, còn mình thì vác theo xác Wright. Một viên AK khác trúng vào phổi, Roy đổ xuống, choáng váng. Chiếc trực thăng trúng đạn súng cối, gục đầu xuống, cả viên phi công và người xạ thủ đại liên đều chết. Roy cố lết lại chiếc trực thăng, giúp những người sống sót ra khỏi máy bay, trước khi nó bốc cháy. Roy tiếp tục chỉ điểm cho phản lực Phantom F4 oanh kích và lĩnh thêm 2 viên đạn AK nữa. Trong lúc đó, đối phương bắn rơi thêm một chiếc trực thăng Gunship nữa.

Rồi một chiếc Huey khác vào bãi đáp, trên chiếc trực thăng có Trung sĩ quân y Ronald Samsons, anh ta giúp Benavidez kéo, dìu phi hành đoàn chiếc trực thăng trúng đạn, xác biệt kích quân lên máy bay. Trên đường về, Benavidez bất tỉnh vì mất nhiều máu và kiệt sức. Mouseau chết vì vết thương ở đầu quá nặng. Wright đã chết trước đó. Về sau họ được truy tặng huân chương Ngoại hạng (Distinguish Service Cross). Benavidez nằm bệnh viện gần một năm, điều trị 7 vết thương đạn AK, cộng 28 mảnh B40, cối 60 ly của đối phương. Roy Benavidez liều mạng cứu 8 người, nhưng chẳng hiểu sao không hề được thưởng công. Người ta chỉ giải thích do giấy tờ bị thất lạc. Mười ba năm sau, khi đã về hưu, Thượng sĩ Roy Benavidez mới được máy bay quân đội chở đến Washington để Tổng thống Reagan gắn huy chương Danh dự (Medal of Honor).


Sau ngày Roy Benavidez cứu toán biệt kích ở Campuchia trong tháng 5/1968, toán Alabama mới xâm nhập lãnh thổ Lào, cách thung lũng A Sầu 15 dặm, họ gắn máy nghe trộm các cuộc điện đàm của đối phương. Trưởng toán là Trung sĩ John Allen, ngoài ra thành viên của toán còn có Kenneth Cryan, Paul King và sáu biệt kích Nùng. Toán Alabama xâm nhập vùng và nghi ngờ có 1 sư đoàn Bắc Việt. Đơn vị này rút qua Lào khi Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ mở cuộc hành quân càn quét khu vực xung quanh thung lũng A Sầu.

Khi chuẩn bị thả toán biệt kích gần đến bãi đáp, Allen trông thấy hầm hố, công sự phòng thủ của đối phương dưới rặng cây, nhưng không thấy bóng dáng quân Bắc Việt tại địa điểm thả toán. Allen bèn ra hiệu đáp xuống và toán biệt kích bắt đầu thực thi nhiệm vụ. Họ di chuyển khoảng 1 tiếng đồng hồ. Với kinh nghiệm của 20 chuyến xâm nhập ở Lào, một chuyến Bright Light xuống miền Bắc Việt Nam và giác quan thứ 6 mách bảo, Allen ra hiệu cho toán phó Ken Cryan biết: “Có điều gì đó không bình thường, ngửi mùi cũng biết chuyện đó”. Allen cùng một biệt kích Nùng tiến tới đằng trước quan sát.

Hai người lên trước khoảng 250 thước, họ trông thấy khoảng đất rộng đã được dọn dẹp, những nhánh cây cao trên đầu được cột lại, che giấu khoảng đất trống ở dưới. Ở giữa có một căn nhà làm bằng tre. Rõ ràng đây là Sở chỉ huy của đối phương, có lính Bắc Việt ra vào. Xa hơn chút nữa có đường hầm rộng đủ 2 người cùng đi đào sâu vào trong núi. Allen chụp mấy tấm ảnh rồi lùi về chỗ toán biệt kích Alabama.

Tập kích bắt tù binh đối phương

Toán phó Ken Cryan cho biết có vài lính Bắc Việt vừa đi ngang qua, có lẽ là đội săn lùng biệt kích. Allen quyết định “cắt đuôi”, rồi cả toán nghe tiếng hô, tiếng lùng sục trong các bụi rậm trên đường họ vừa di chuyển qua. Toán biệt kích chạy thoát. Vài phút sau, người biệt kích dẫn đường đưa toán băng qua một con đường mòn, có lẽ dẫn tới Sở chỉ huy. Âm thanh truy lùng toán biệt kích chỉ cách họ chừng 50 thước, Allen quyết định tăng tốc độ di chuyển. Họ băng qua một đường mòn nữa, nghe tiếng gọi nhau của đối phương ở cánh phải và cả tiếng trả lời phía sau. Toán biệt kích chạy hết sức lực lên ngọn đồi, để lại phía sau những tràng súng AK nổ vang dội. Một biệt kích đáp lại bằng tràng CAR15. Cryan quỵ xuống ôm lấy đùi bên phải, Allen chạy lại xốc nách Cryan dìu đi, mặc cho Cryan yêu cầu hãy chạy đi, để anh ta ở lại. Một biệt kích Nùng trúng 1 viên AK vào ngực, gục xuống đất chết, cũng được đồng đội cõng theo.


Trong khi Paul King gọi máy bay cấp cứu, Allen tìm chỗ để phòng thủ. Anh ta thấy một hố bom cách chừng 50 thước trên đường lên núi, bèn ra lệnh cho các thành viên bắn yểm trợ. Allen dìu Cryan di chuyển đến hố bom, bộ phận còn lại theo sau. Allen trải tấm panel màu cam giữa lòng hố bom, đánh dấu vị trí toán biệt kích để Paul King gọi phi cơ đến ứng cứu. Người biệt kích Nùng đã chết, Cryan trúng đạn vỡ xương đùi khiến anh ta đứng lên không nổi. Có lẽ phải cưa chân. King chích morphin cho Cryan, đủ cho anh ta đỡ đau và tỉnh táo.


Allen cùng những biệt kích còn lại chuẩn bị công sự phòng thủ xong thì Quân đội Bắc Việt xuất hiện, tiến lên đồi. Nhờ vị trí trên cao, toán biệt kích ném lựu đạn xuống khiến đối phương phải lui lại. Đúng lúc đó, King gọi Allen: “Đã có phi cơ FAC lên vùng” và đưa máy cho anh ta liên lạc. Khi King bước ra miệng hố thay cho Allen thì gần như ngay lập tức, một viên AK bắn trúng đầu King khiến anh ta chết ngay tức khắc. Toán Alabama giờ đã có 2 người chết.

Máy bay quan sát chỉ điểm cho những chiếc phi tuần đánh bom nhằm đẩy lui Quân Bắc Việt ra xa. Thế là hết Phantom F4 đến lượt Super Sabres F100, lại đến A1 Skyraider, rồi trực thăng đến. Nhưng viên phi công non gan, không dám xuống, mặc dù Allen đã trải panel, đánh dấu vị trí toán biệt kích và đưa tay ra hiệu. Lòng vòng một hồi, chiếc trực thăng phải bay về vì hết nhiên liệu, hẹn hôm sau sẽ trở lại (!) Toán Alabama đành phải đợi đến sáng hôm sau. Đêm đó, họ phải chiến đấu suốt đêm, thêm 1 biệt kích Nùng nữa bị thương nhẹ.

Sáng hôm sau, Quân Bắc Việt vẫn tiếp tục bò lên tấn công, bỗng có 1 tiếng nổ lớn rung động hố bom. Allen định thần nhìn quanh, toán Alabama 9 người lúc xâm nhập giờ đây chỉ còn lại anh ta và 1 biệt kích Nùng, còn tất cả đều thương vong, nằm la liệt trong hố bom. Đêm qua, quân Bắc Việt đã đem súng máy phòng không 12 ly 7 và 37 ly đến xung quanh khu vực toán biệt kích. Họ biết thế nào máy bay Mỹ cũng sẽ đến ứng cứu, nên đã chuẩn bị trận địa.

Đúng như dự đoán, một chiếc Phantom bị bắn rơi, những chiếc khác lo tìm cách tiêu diệt hỏa lực phòng không của đối phương. Đến chiều, trực thăng cấp cứu CH53 Jolly Green đến bốc toán Alabama. Do sườn núi dốc, chiếc CH53 không đáp đất được đành phải thả dây cấp cứu xuống. Allen đặt Cryan lên một dây, dây bên kia cho một biệt kích Nùng ngồi vào, rồi chào: “Hẹn gặp ở Phú Bài”.

Chiếc CH53 từ từ bốc lên, đạn AK bắn đuổi theo trúng cả hai, máu nhỏ xuống mặt Allen, chiếc trực thăng hốt hoảng bay đi luôn. Quân Bắc Việt vẫn bắn theo, nhằm vào đám biệt kích chứ không phải trực thăng. Hai xác chết xuôi tay, nhưng vẫn còn dính dây cấp cứu nên được trực thăng đem đi.


Chiến dịch Silver City, 13/4/1966

Allen nổi điên, chửi thề um xùm và nói với FAC là sẽ tìm đường khác. Viên phi công lái FAC rất bình tĩnh hỏi lại: “John, anh định tìm đường nào?”. John Allen lấy thêm đạn từ những biệt kích đã chết, rồi ra khỏi hố bom, chạy như bay xuống núi. Quân Bắc Việt bất ngờ nên không kịp bắn đuổi theo. Chạy được một quãng, John Allen gọi FAC:

- Tôi đã ra khỏi, trực thăng có chưa?
- Tôi vẫn theo bạn, sẽ có Kingbee đến đón.
- Còn mấy ông bạn của tôi thì sao?
- Y tá nói họ Ok! Họ Ok! (viên phi công FAC nói dối, để trấn an Allen).

Cuối cùng chiếc Kingbee do phi công của Phi đoàn 219 lái đã đến bốc Allen đưa về căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài. Đến lúc này người ta mới biết Cryan và người biệt kích Nùng lĩnh mỗi người 30 viên đạn AK khi chiếc trực thăng CH53 đến bốc họ. Toán biệt kích Alabama cuối cùng chỉ còn mỗi mình Allen sống sót. Ngay cả biệt kích quân ngồi sau ghế phi công của chiếc FAC là Trung sĩ nhất John Robertson, cũng chết 15 ngày sau, khi đi theo Kingbee ứng cứu trong một phi vụ, cách toán Alabama xâm nhập khoảng 10 dặm. Quân Bắc Việt bắn rơi chiếc Kingbee bằng hỏa tiễn SA7.


Toán Alabama tại FOB1 Phú Bài