Monday, October 22, 2012

Page 20-Page 39


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P20



Ba ngày sau, toán Idaho xâm nhập cách đó khoảng 5 dặm. Mãi đến chiều hôm đó, trưởng toán Glen Lane, toán phó Robert Owen mới điện vắn tắt cho Covey (FAC) biết họ không báo cáo được vì Quân Bắc Việt đã bao vây toán. Đó là lần cuối cùng toán biệt kích Idaho báo cáo, không ai biết chuyện gì đã xảy ra cho toán biệt kích. Toán Oregon được cử đi tìm toán Idaho, nhưng chỉ tìm thấy dấu vết lựu đạn nổ, chứng tỏ có cuộc đụng độ và toán Idaho đã bị đối phương bắt. Đến phiên toán Oregon bị đơn vị chống biệt kích của Quân Bắc Việt tấn công, cả toán đều bị thương, nhưng đều thoát hiểm.


Đến mùa mưa năm 1968, SOG có chỉ huy trưởng mới là Đại tá Cavanaugh. Đoàn Nghiên cứu quan sát dồn nỗ lực sang lãnh thổ Lào và Campuchia. Một số thành viên của Thượng nghị viện Mỹ có lý khi chỉ trích Chính phủ Mỹ “mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương”. Tại chiến trường miền Nam, SOG chỉ quan tâm đến thung lũng A Sầu, cách Đà Nẵng 40 dặm về hướng nam. Thung lũng A Sầu rộng 25 dặm, kéo dài sang biên giới Việt – Lào về hướng tây bắc. Trong khu vực này, quân Mỹ đã phải bỏ 2 sân bay dã chiến và 3 trại biệt kích.

Ngày 3/8/1968, toán biệt kích Idaho mới được thành lập lại, do Wilbur Boggs làm trưởng toán, xâm nhập vào thung lũng A Sầu, cách chỗ Idaho đã biến mất ngày 20/5/1968 khoảng 10 dặm. Toán phó là John Walton, vốn thông minh, chơi xì phé giỏi (?!) (sau này được hưởng gia tài là những tiệm Wal Mart). Ngoài ra, toán còn có Tom Cunningham và biệt kích Thượng.

Idaho mới xâm nhập không lâu, đã bị tấn công. Trưởng toán Boggs bị thương nặng, hai biệt kích Thượng chết. Toán bị bao vây không còn lối thoát. Walton phải gọi máy bay oanh kích ngay trên đầu toán. Nhờ vậy, Quân Bắc Việt mới lui ra. Nhân đó, Walton nhanh chóng cấp cứu những biệt kích bị thương, kể cả Cunningham và tất cả đều thoát nạn.




Không ai có thể ngờ vào lúc 3 giờ sáng ngày 23/8/1968, đặc công Quân đội Bắc Việt đã táo bạo tấn công Sở chỉ huy Bắc (CCN). Trận tấn công kéo dài 3 tiếng đồng hồ, khiến 15 sĩ quan, hạ sĩ quan biệt kích Mỹ thiệt mạng. Đó là con số tổn thất lớn nhất kể từ khi SOG thành lập. Mười sáu biệt kích quân Kinh, Nùng, Thượng của Quân đội Sài Gòn chết. Theo báo cáo của SOG thì đối phương cũng bị thiệt mạng 38 người, 9 bị thương và bị bắt làm tù binh. Trong số xác của đối phương để lại, có cấp dưỡng ở bếp của Sở chỉ huy Bắc, là nội tuyến của đối phương gài vào.

Sau vụ Đà Nẵng, toán biệt kích SOG vẫn tiếp tục xâm nhập vào lãnh thổ Lào. Vào thời điểm cuối mùa mưa 1968, không ai may mắn hơn Trung sĩ Lynne Black Jr. Ngày 5/10/1968, toán của anh ta xâm nhập miền Trung Lào, chạm trán ngay đối phương. Toán trưởng là Trung sĩ James Stride chết ngay trong loạt đạn đầu. Như rắn mất đầu, toán biệt kích bỏ chạy tứ tán. Black cùng với hai biệt kích Thượng vô tình chạy ngang qua Sở chỉ huy quân Bắc Việt, nhưng do sự việc trên diễn ra quá nhanh, đối phương không phản ứng kịp.


Phát hiện căn cứ của đối phương
Đúng lúc đó, một chiếc CH53 Jolly Green đến từ Thái Lan đến. Black đưa hai biệt kích Thượng và Mỹ thất lạc lên máy bay trước. Nghe tiếng trực thăng, hai lính Bắc Việt chạy ra, đụng Black. Hai bên vật lộn, giằng co. Không hiểu sao Black thoát ra được và được trực thăng câu lên. Đúng lúc đó, chiếc trực thăng chao đi do trúng đạn B40, viên phi công đáp xuống một rặng núi khác, rồi một chiếc CH53 đến bốc tất cả về căn cứ an toàn, trừ xác trưởng toán Stride không tìm được.

Bill Copley không được may mắn như Lynne Black. Vài tuần sau khi Black thoát hiểm, toán biệt kích khác xâm nhập vào vùng nam Lào, bị đối phương bao vây, rượt đuổi. Copley bị thương, anh ta cầu cứu khẩn thiết: “Giúp tôi! Tôi bị thương!”. Một thành viên của toán cõng Copley chạy, đến khi kiệt sức phải bỏ lại vì đối phương đuổi theo sát gót. Sau đó, toán cấp cứu Bright Light vào tìm thì chỉ thấy vết máu nơi Copley nằm.


Tổng kết năm 1968, không kể vụ đặc công Bắc Việt tấn công Sở chỉ huy Bắc, SOG có 18 biệt kích Mũ Nồi Xanh tử trận, 18 người mất tích.




SOG CHIẾN ĐẤU TRONG ĐƠN ĐỘC

Sau cuộc tấn công sang Campuchia, Quân đội Mỹ gia tăng việc rút quân, các đơn vị còn lại tạm ngưng các cuộc hành quân để di chuyển về vùng trung tâm, bảo vệ các thành phố lớn, sân bay dọc theo bờ biển.


Củ Chi, 26/7/1966. Lính Sư 25 "Tia chớp nhiệt đới" trong 1 kế hoạch cung cấp sân chơi cho trẻ em

Chỉ trừ vài đơn vị pháo binh trong những căn cứ hỏa lực, không một đơn vị cơ động nào của Mỹ còn nằm sâu trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Khi Quân đội Mỹ rút khỏi khu phi quân sự Tây Nguyên và những vùng hẻo lánh, thì Quân đội Sài Gòn càng thiếu hỏa lực, không quân yểm trợ, nên không đủ sức làm chủ ngay trên địa bàn mà Quân đội Mỹ vừa bàn giao. Ngược lại, Quân Giải phóng, với sự hợp lực của Quân đội Bắc Việt, ngày càng mở rộng vùng kiểm soát. Họ đồng thời phát triển hệ thống đường tiếp tế đi qua lãnh thổ Lào, vừa xây dựng những căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt – Lào. SOG tự đề cao vai trò, vị trí của mình rằng không lực lượng nào có thể ngăn cản được sự phát triển của đối phương, ngoài lực lượng biệt kích. Đại tá Roger Pezzelle, chỉ huy Trung tâm hành quân bộ của SOG tuyên bố: “Không có ai ngoài Đoàn Nghiên cứu, quan sát”.

Phải chăng đó là niềm kiêu hãnh của lính biệt kích. Chẳng thế mà Trung sĩ nhất Billy Greenwood ở căn cứ hành quân tiền phương 2 (FOB 2) đã đầy tự tin cho rằng: “Chúng tôi vẫn hành quân liên tục một cách bình thường như trước đây”. Nói thì dễ, còn thực tế lại chẳng dễ dàng chút nào. Vào một buổi chiều, Lloyd O’Daniel nhìn trực thăng đem xác Trung sĩ nhất David “Baby” Hayes về. Lloyd O’Daniel buồn rầu chán nản: “Hôm trực thăng câu xác anh ta về, họ dùng dây câu kéo lên từ trong rừng. Chiếc trực thăng bay rất chậm rồi từ từ hạ xác của anh ta xuống mặt đất. Hayes đã có vợ và 3 con. Chúa ơi! Có phải đó là thực sự là niềm kiêu hãnh hay không?”.

Cho dù xứng đáng hay đơn độc, các toán biệt kích SOG vẫn phải tiếp tục xâm nhập những vị trí phòng thủ kỹ lưỡng nhất của đối phương trên đất Lào, khu phi quân sự và cả lãnh thổ miền Nam. Kết quả, theo các báo cáo của họ cho là thành công một nửa, Riêng toán biệt kích Washington xâm nhập vào lãnh thổ Lào hai chuyến, nhắm vào mục tiêu Charlie 3 khoảng cuối mùa mưa 1970.

Ngày 5/11/1970, Đại úy Steve Wallace, trưởng toán biệt kích, cùng với Jeff Mauceri, Curt Green và ba biệt kích Thượng được thả vào vùng Nam Lào. Họ di chuyển rất cẩn thận, thám sát khu vực bốn ngày thì phát hiện vị trí đóng quân của một tiểu đoàn Quân đội Bắc Việt vừa mới di chuyển đi nơi khác. Họ tiếp tục thám sát mục tiêu thì tìm thấy một con đường lớn và đường dây điện thoại. Lần theo đường dây, toán biệt kích trông thấy sâu trong rừng là một cánh đồng lúa và lính hậu cần của Quân đội Bắc Việt đang canh tác.



Phía trên kia là một thung lũng, họ tìm ra một bệnh viện bỏ hoang và bãi nghĩa địa với hàng trăm nấm mộ. Có thể đây là tổn thất của đối phương sau trận đánh các trại biệt kích Dak Seang, Dak Pek ở khu vực biên giới Việt Lào, thuộc địa bàn Tây Nguyên năm tháng trước đó. Chiều hôm sau, toán Washington nghe có tiếng di chuyển đều đều, trưởng toán Wallace tìm một vị trí đóng quân qua đêm, định để sáng hôm sau xem có chuyện gì. Bất ngờ, toán biệt kích chạm trán đơn vị săn lùng biệt kích của đối phương, Mauceri bắn gục một lính đối phương, rồi cả toán bỏ chạy.

Đêm đó toán biệt kích trốn trong một bụi rậm gần một con suối. Sáng hôm sau, Wallace liên lạc với máy bay điều không FAC và được hướng dẫn di chuyển đến một bãi đáp. Trên đường đi, họ bắn chết một lính của đối phương nữa và thu được cuốn sổ tay ghi chép báo cáo về việc sản xuất. Dựa vào cuốn sổ đó, Bộ chỉ huy SOG ở Sài Gòn khen ngợi toán Washington đã khám phá ra chổ đóng quân mới của Trung đoàn 28, Quân đội Bắc Việt và ra lệnh cho toán biệt kích quay trở lại đặt máy nghe trộm tại vị trí toán biệt kích phát hiện ra đường dây điện thoại. Với vẻ ngán ngẩm, trưởng toán biệt kích lẩm bẩm: “Vừa mới chạy tè ra quần, lại phải quay lại (!)”. Cả toán chỉ cầu mong được nhận nhiệm vụ ở nơi khác.


Ngày 1/12/1970, toán Washington xâm nhập trở lại vị trí đóng quân của Trung đoàn 28, Quân Bắc Việt. Họ âm thầm di chuyển suốt 3 ngày thì đến ngọn đồi, nơi họ tìm thấy dây điện thoại. Đêm đó, họ đóng quân gần đường dây, định sáng hôm sau sẽ đặt máy nghe trộm.

Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, lúc họ đang lần tìm đường dây, thì bỗng người dẫn đường nổ súng, bắn gục một lính đối phương. Thế là cả một đại đội lính Bắc Việt đang ăn sáng gần đó nổ súng. Đạn AK của đối phương bắn trúng khẩu CAR 15 của Curt Green, làm hỏng khẩu súng và làm anh ta bị thương vào tay. Toán Washington bỏ chạy, họ băng qua một sườn đồi và lại chạm trán với một toán đối phương khác, bắt buộc toán biệt kích phải cắt ngang để chạy trốn. Green phải sử dụng khẩu súng lục P38.




Chiếc Covey bao vùng được gọi đến để bắn cản phía sau toán và hướng dẫn biệt kích quân chạy đến một bãi đáp trên một đỉnh đồi. Toán Washington xem chừng đã dứt đuôi được toán quân đối phương truy kích và được Covey cho biết, sẽ có trực thăng trong vòng 10 phút nữa. Đại úy Wallace ra lệnh cho Mauceri dùng mìn Claymore đốn ngã 5 cây nhỏ để làm bãi đáp cho trực thăng. Toán phó Green chỉ điểm cho máy bay khu trục đánh chặn đường phía sau, không cho đối phương đuổi theo.

Bỗng một loạt đạn AK nổ vang dội, Green đổ xuống. Mauceri trông thấy Green nằm gục, tay ôm lấy lưng, nơi viên đạn xuyên qua, trong lúc quân đối phương đang tiến lên. Mauceri không thể làm gì cho Green, nhưng toán biệt kích phải thu lại máy bộ đàm để liên lạc. Toán phó Mauceri vừa chạy, vừa bắn và ném lựu đạn yểm trợ cho một biệt kích Thượng lấy ba lô của Green, vì trong đó có máy bộ đàm. Nhưng một viên AK trúng ngay người biệt kích Thượng. Mauceri dìu anh ta chạy trở lại, để tay biệt kích Thượng khác lấy ba lô của Green.

Một chiếc trực thăng Huey đang đáp xuống, đúng lúc một trung đội đối phương tấn công, đạn bắn xối xả vào chiếc trực thăng, khiến nó phải bay vọt lên. Wallace, Mauceri cùng hai biệt kích Thượng không bị thương bắn trả đối phương, buộc họ phải lùi lại. Đúng lúc đó, mấy quả B40 nổ tung, Wallace ôm lấy mặt, không nhìn thấy gì nữa. Mauceri đặt anh ta nằm dưới một bóng cây và nói dối: “Mình sẽ ra khỏi đây, không sao đâu!”.


Trên không trung, Larry White ngồi sau chiếc Covey báo cáo cho Mauceri biết: “Tụi bê bối (?!) di chuyển qua sườn bên phải của bạn. Coi chừng!”. Theo chỉ dẫn của Larry White, Mauceri bò về phía bên phải và ném xuống mấy quả lựu đạn. White khích lệ: “Bạn làm cú đẹp! Dứt nọc tụi nó rồi!”. Sau đó, khu trục A1 Skyraider nhào xuống thả bom chùm (Cluster), làm cho đối phương phải giãn ra. Trực thăng đáp xuống bốc toán biệt kích. Tất cả đều thoát, chỉ trừ Green không lấy được xác. Đại úy Wallace bị mất một mắt, sau đó giải ngũ. Mauceri lên chức trưởng toán biệt kích Washington.

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P21



Thế rồi, ngày 21/1/1971, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ bàn giao trại biệt kích cuối cùng cho Biệt động quân Sài Gòn. Việc các đơn vị biệt kích Mỹ rút quân đã gây trở ngại cho trung tâm SOG. Sở chỉ huy Bắc (CCN) phải đổi tên thành Ban cố vấn đặc nhiệm 1 (Task Force 1). Sở chỉ huy Trung (CCC) đổi thành Ban cố vấn đặc nhiệm 2. Quân Mỹ đội mũ lưỡi trai đen, nay thay bằng mũ bêrê xanh, đeo phù hiệu MACV.


Binh sĩ Úc tại miền Nam Việt Nam

Ngày 29/1/1971, trong khi John Plaster (người sau này biên soạn tài liệu SOG) ngồi trên chiếc Covey, do Đại úy không quân Jim Cryer lái, bay trên vùng lãnh thổ Nam Lào, sau khi toán biệt kích Hawaii, do Les Dover làm trưởng toán, báo cáo xin rút quân khẩn cấp trong một cuộc đụng độ với đối phương. Trong lúc chiếc Covey đang cố tìm cách bốc toán Hawaii, thì toán Colorado đang cách đó 8 dặm, cũng báo cáo khẩn cấp. John Plaster trao lại nhiệm vụ bốc toán Hawaii chotrực thăng khác, rồi bay về hướng nam để giúp toán biệt kích Colorado, do Pat Miller làm trưởng toán, toán phó bự con Dvid Lurch Mixter, cùng với John St. Laurent và mấy biệt kích Thượng. Khi chiếc Covey đến, Lurch đã xơi “kẹo đồng” chết, còn St. Laurent thì bị thương, những biệt kích Thượng vì quá hoảng sợ, đã bỏ chạy.

Trong lúc đó thì Quân Bắc Việt vẫn tiếp tục tấn công. Trong tình cảnh không thể đem xác Lurch theo được, Mitchell và St. Laurent định chiến đấu đến cùng. Nhưng thấy trực thăng vũ trang xuất hiện, bắn yểm trợ, John Plaster động viên Mitchell: “Không sao, vong linh Lurch sẽ hiểu. Phải lo cho người sống đã! Bây giờ chạy, trực thăng sẽ đánh dọn đường cho ta”. Thế là David Lurch Mixter trở thành quân nhân Mỹ xấu số cuối cùng mất tích trên đất Lào.

Ngày 6/2/1971, Tư lệnh Quân Mỹ tại Việt Nam ra lệnh cho các đơn vị SOG chấm dứt mọi hoạt động của những toán biệt kích, do quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ làm trưởng toán ở bên Lào. Mệnh lệnh trên làm sửng sốt Đại tá Sadler, chỉ huy trưởng SOG. Ông ta đang theo dõi hoạt động quấy rối, nghi binh của những toán biệt kích để yểm trợ cho cuộc hành quân Lam Sơn 719 do Quân đội Sài Gòn đảm nhiệm, đánh vượt biên sang đất Lào. Thế mà Tổng thống trước đó trả lời báo New York Times rằng: “Không có một người nào ở bên Lào tử trận trong các trận đánh trên bộ”. Ít lâu sau, ngài Tổng thống “hé” ra một chút: “Chỉ có vài nhân viên CIA mất tích”. Rõ ràng Lầu Năm Góc vẫn giấu nhẹm những tổn thất của các đơn vị SOG, vì sau trận đánh qua Campuchia, Quốc hội Mỹ đã biểu quyết không cho Chính phủ đưa Quân đội Mỹ sang Lào. Sợ mất mặt chính quyền, Lầu Năm Góc đành ra lệnh cho các đơn vị SOG không được đưa các toán biệt kích có quân nhân Mỹ xâm nhập qua Lào.

Chẳng qua Quốc hội Mỹ muốn giảm thiểu xương máu của binh sĩ Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, thông qua chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”, thay vào đó sẽ là máu xương của người Việt Nam và của người Đông Dương. Do đó, vào thời điểm rất khó khăn cho Quân đội Sài Gòn, Tư lệnh Quân Mỹ tại Việt Nam vẫn cho phép các đơn vị SOG hoạt động trong hành lang rộng 10 km dọc theo khu phi quân sự và biên giới Việt – Lào, với lệnh hành quân xâm nhập những căn cứ có đối phương tập trung quân, mà thời điểm đó, Quân đội Bắc Việt đã có đường Hồ Chí Minh nối liền từ miền Bắc qua đất Lào vào miền Nam Việt Nam.

Kế hoạch cuộc hành quân Lam Sơn 719 được hoạch định, với mục tiêu tấn công phá hủy các căn cứ tiếp vận, đóng quân, hậu cần, phá hủy hệ thống đường giao thông của Quân đội Bắc Việt trong mùa khô 1971-1972, cũng như trận vượt biên đánh sang Campuchia 1971. Xuất phát từ Khe Sanh, lực lượng Quân đội Sài Gòn sẽ tiến quân về hướng tây, theo trục đường số 9, nhằm phá hủy các căn cứ của đối phương xung quanh Tchepone, rồi quay xuống phía nam theo trục đường 92 để tấn công Sở chỉ huy Bộ tư lệnh tiền phương Đoàn 559 của đối phương. Cuối cùng, theo trục đường 922 trở về lãnh thổ Việt Nam qua thung lũng A Sầu.

Sau đó ít phút. Nhưng ít được biết đến hơn

Đã 3 lần, chỉ huy trưởng SOG báo cáo cho Tướng Abrams, cùng viên tướng trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh MACV và viên tướng Tư lệnh Quân đoàn 24 của Mỹ: “Phải tránh xa chỗ đó! (Lào)”. Đại tá Sadler là người biết rõ trong vòng 4 tháng vừa qua, chỉ có 40% toán biệt kích hoạt động trong lòng đối phương quá 24 giờ đồng hồ. Đối phương đã đề phòng và bố trí lực lượng để đối phó với lực lượng biệt kích vì: “Họ đã ở vào thế phản công, và biết trước phe ta sẽ tấn công. Tử thần đang chờ đợi!”.

Đại tá Pinkerton, sĩ quan hành quân SOG kể tiếp: “Khi chúng tôi thuyết trình cho Bộ Tham mưu Quân đoàn 24, Tướng Sutherland nói rằng ông ta lo nhất vấn đề đưa họ (Quân đội Sài Gòn) vào vùng hành quân. Nhưng tôi trả lời, điều ông lo nhất nên là làm sao để đưa họ ra khỏi đó”.
Ngày 8/2, Quân đội Sài Gòn vượt biên, tiến về hướng tây trên con đường số 9. Trong khi đó, trực thăng đưa mấy tiểu đoàn Biệt động quân và lính dù vào chiếm những ngọn đồi, để bảo vệ sườn bắc và nam của trục tiến quân. Đường số 9 xe chạy được một chiều, dễ bị tắc nghẽn nếu chỉ một chiếc xe bị hỏng. Do đó, nếu đối phương cắt con đường huyết mạch này, quân Sài Gòn sẽ bị sa lầy.

ĐẠI ĐỘI XUNG KÍCH HATCHET FORCE

Khoảng 22 giờ đêm, ngày 3/3/1969, mười chiếc thiết giáp PT76 và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 66 Quân đội Bắc Việt đã dàn đội hình tấn công một trại biệt kích tiền tiêu tại vùng 3 biên giới. Lần đầu tiên, kể từ khi trại biệt kích Làng Vây bị tấn công năm 1968, Quân đội Bắc Việt sử dụng xe tăng trên chiến trường Tây Nguyên. Mục tiêu tấn công là trại biệt kích Bạch Hổ (Ben Het). Trại này chỉ cách biên giới Việt – Lào khoảng 3 dặm.


Củ Chi, 17/4/1967. Binh nhất Class Milton, xạ thủ M 60, Sư 25 Tia chớp nhiệt đới

Trại biệt kích Bạch Hổ được bảo vệ bằng nhiều lớp hàng rào kẽm gai và bãi mìn phòng thủ. Quân số của trại gồm 12 biệt kích Mũ Nồi Xanh và 1.500 biệt kích quân Thượng. Ngoài ra, trại được tăng cường thêm 4 xe tăng Mỹ, một trận địa pháo 105 ly và 175 ly, cùng mấy đại đội biệt kích quân ứng cứu (Mike Forces).

Lực lượng của đối phương gồm 2 trung đoàn chính quy: Trung đoàn 28 và Trung đoàn 66, mấy tiểu đoàn pháo binh và một chi đội thiết giáp. Tương tự như trận Điện Biên Phủ và Khe Sanh, Quân đội Bắc Việt trước hết pháo kích như mưa vào trại biêt kích Bạch Hổ bằng súng cối, pháo 130 ly, hỏa tiễn 107 ly và 122 ly. Đồng thời đối phương cũng tung quân ra cắt đường tiếp tế và sử dụng hỏa lực phòng không khống chế, không để cho máy bay Mỹ thả đồ tiếp tế cho căn cứ.

Rút kinh nghiệm từ trận Làng Vây bị tấn công, lần này trại Bạch Hổ đã có sự chuẩn bị trước nhờ tin tình báo của SOG. Khi đoàn xe thiết giáp của Quân Bắc Việt tiến vào vị trí tấn công, thì đụng phải bãi mìn và lập tức xe tăng Mỹ, cùng các loại pháo 75 ly, 90 ly không giật ở trận địa ngọn đồi phía tây bắn xuống đoàn thiết giáp PT76. Sau đó, máy bay phản lực Mỹ nhào xuống vừa trút bom, vừa xả đại liên 20 ly khiến cho không một chiếc thiết giáp nào của đối phương có thể tiến xa hơn 100 thước.


Căn cứ pháo binh của Quân đội VNCH đặt tại Lào

Tuy nhiên, áp lực trùm lên trại Bạch Hổ không vì thế mà giảm bớt. Trại này đã bị cô lập, bao vây và đối phương tiếp tục đổ thêm quân. Ban ngày, trên đường 110 ở Tây Trường Sơn, từng đoàn xe vận tải Molotova của đối phương chất thêm đạn dược, sẵn sàng đưa đồ tiếp viện vào chiến trường. Từng đoàn thanh niên xung phong, công binh Quân đội Bắc Việt Nam nhanh chóng san, lấp hố bom sửa đường cho những đoàn xe cơ động. Cả quân Mỹ và Sài Gòn đều biết trước, nhưng không sao ngăn chặn được trận tấn công trại biệt kích Bạch Hổ. Họ quyết định thay đổi chiến thuật.

Như thường lệ, đoàn xe Motolova của Quân đội Bắc Việt nghe tiếng trực thăng đến từ hướng đông, liền bắn súng báo động và nép dưới những tán cây. Nhưng lần này thì khác, tiếng máy bay ầm ĩ hơn, những chiếc khu trục A1 Skyraider xà xuống thả bom chùm dọc theo con đường.
Tiếp theo là 6 chiếc trực thăng Cobra bay sát đầu ngọn cây bắn hỏa tiễn và đạn nhọn tới tấp vào đoàn xe.

Hai đoàn trực thăng khác chở quân đổ xuống một ngọn đồi trọc nhìn xuống đường 110, rồi bay lên. Vài phút sau, Quân Bắc Việt rất ngạc nhiên khi nghe tiếng cưa cây (?), tiếng cuốc xẻng đào hầm hố trên đồi. Hôm đó là ngày 4/3/1969, trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh, Quân Bắc Việt cơ động với mật độ rất cao. Cùng thời điểm trên, cách mặt trận Bạch Hổ khoảng 12 dặm, một đại đội xung kích Hatchet Force của SOG, đóng chốt khóa đường 110, con đường tiếp tế của đối phương tại chiến trường vùng 3 biên giới. Đại đội xung kích này đang làm chuyện “bạt mạng”.

Dưới quyền chỉ huy của Đại úy Bobby Evans, SOG thực hiện cuộc hành quân “Spindow” nhằm chốt chặn, cắt đường tiếp tế của Quân đội Bắc Việt. Nhiệm vụ này được giao cho đại đội xung kích Hatchet Force A từ Đà Nẵng vào. Hơn 100 quân biệt kích cấp tốc đào hầm hố để tránh những đợt pháo kích của đối phương, sẽ chụp xuống trong giây lát.

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P22


Ngọn đồi họ chiếm đóng cao khoảng 300m, rất lợi thế cho việc cắt đường. Từ phía bắc nhìn xuống, con đường 110 lộ ra rõ ràng vì bom đã dọn sạch khu rừng che phủ. Phía bên kia, có dòng suối nhỏ chạy dọc theo con đường. Đối phương buộc phải thanh toán đại đội xung kích Hatchet Force nếu muốn đoàn xe Molotova của họ tiếp tục tiếp tế cho Mặt trận Bạch Hổ. Vì vậy, Quân Bắc Việt bắt đầu pháo kích lên đồi, nhưng vô hiệu, quân biệt kích nằm dưới hố cá nhân chờ đợi những đợt tấn công của đối phương. Đêm đó, quân biệt kích dùng kính phóng đại ánh sáng trăng, theo dõi lượng xe cộ của đối phương trên đường 110. Mỗi khi phát hiện có đoàn xe, họ gọi Hỏa Long AC 119 hoặc AC 130 lên tiêu diệt. Trong đêm đó, đối phương bò lên ném lựu đạn, bắn quấy rối, rồi biến mất.


Khe Sanh 1/1969

Sáng hôm sau, trực thăng SOG đem nước, tiếp tế cho đơn vị xung kích, trong khi đó đối phương tăng cường thêm súng phòng không. Đến trưa, một chiếc Phantom F4 thả nhầm 1 quả bom Napalm trên đồi làm 6 biệt kích Thượng thiệt mạng, cùng nhiều người khác bị thương. Lại thêm 1 quả đạn cối của đối phương trúng ổ đại bác 90 ly của đại đội xung kích, làm bị thương cả khẩu đội. SOG phải đưa toán biệt kích South Carolina đến thay thế.

Đối phương chỉ pháo kích, quấy rối chứ chưa dám tấn công đại đội xung kích trong vòng 6 ngày. Cuộc hành quân Spindown đã phá hủy 6 xe vận tải của đối phương, cùng nhiều chiếc khác bị ùn tắc, làm mồi cho máy bay oanh tạc. Quân Bắc Việt tấn công trại Bạch Hổ không được tiếp tế, sau đó phải rút quân về khu vực biên giới Việt Lào.

Lại nói, khi lực lượng Hatchet Force được thành lập vào năm 1966, vị Đại sứ Mỹ tại Lào chỉ cho phép SOG hành quân đến cấp trung đội và mỗi cuộc hành quân đều phải có sự chấp thuận của ông ta. Văn bản nhà nước cho thấy không có cuộc hành quân cấp đại đội nào trên đất Lào trong những năm 1967-1969. Nhưng đến năm 1969. Chính phủ Mỹ quyết định triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, với sách lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Để giảm thiểu đổ máu xương của lính Mỹ, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Mỹ đã cho phép SOG có thể hành quân đến cấp đại đội Hatchet Force, với sự chấp thuận của Đô đốc Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của liên quân Mỹ ở Hawaii. Theo đó, lực lượng Hatchet Force phát triển đến mức cao nhất trong năm 1969, với 4 đại đội, chia ra đóng quân tại Đà Nẵng, Kontum và Buôn Mê Thuột. Biên chế mỗi đại đội có 3 trung đội, với quân số 42 biệt kích quân người dân tộc thiểu số và 3 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ.



Tuy nhiên, các cuộc hành quân cấp đại đội gặp khó khăn về nhu cầu trực thăng. Cụ thể, cần 12 chiếc trực thăng đổ quân. Khác với các toán biệt kích, lực lượng Hatchet Force không thể tránh được đối phương hoặc lẩn trốn. Trường hợp bị một đơn vị lớn của đối phương tấn công mà không bốc ra kịp, đại đội xung kích có thể bị đối phương đè bẹp. Chưa kể khi gặp thời tiết xấu, trực thăng không bay được, rất nguy hiểm cho đại đội xung kích. Do đó Hatchet Force chỉ được sử dụng trực thăng trong những tháng có thời tiết tốt. Do không đủ trực thăng, nên khi sử dụng đại đội xung kích, thì các toán biệt kích buộc phải nằm nhà.

Trong khoảng thời gian diễn ra cuộc hành quân Spindown vào đầu năm 1969, một trung đội Hatchet Force từ Đà Nẵng được giao nhiệm vụ lục soát vùng rừng núi phía tây căn cứ Khe Sanh. Cùng hành quân với trung đội này có Đại úy Jim Storter, đi theo để huấn luyện cho hai Thiếu úy trẻ là Peter Mc Murray và Vincent Sabatinelli. Cả hai sĩ quan trẻ này đều không thọ quá 6 tháng. Sabatinelli tử trận ngày 25/7; Mc Murray tử trận ngày 27/8/1969.


Giấy chứng nhận của Nha Kỹ Thuật

Chỉ nhờ những sơ hở trong hệ thống an ninh của Quân đội Bắc Việt mà trung đội Hatchet Force lục soát vùng rừng núi này mà không gặp đối phương. Đêm đầu tiên, họ lập trận địa phòng thủ. Khoảng 3 giờ sáng, tất cả đều ngạc nhiên thức giấc vì nghe tiếng xe vận tải dừng gần nơi đóng quân đóng quân đêm của họ. Sáng hôm sau, Đại úy Storter báo cáo cho máy bay điều không FAC biết chuyện xảy ra trong đêm và xin một phi đội máy bay A1 Skyraider từ Đà Nẵng lên bao vùng. Khi hai chiếc khu trục lên, trung đội biệt kích đã di chuyển về hướng tây, nơi họ nghe tiếng xe vận tải của đối phương hồi đêm.

Họ di chuyển khoảng 300 thước, leo lên một rặng núi, nhìn xuống thung lũng. Những chiếc xe vận tải Molotova của đối phương quá to, không ngụy trang được hết nên các biệt kích quân đều thấy rõ. Đại úy Storter chỉ điểm cho hai chiếc khu trục đến oanh kích. Sau đó trung đội Hatchet Force xuống lục soát, kết quả 6 xe vận tải bị trúng hỏa tiễn, cùng mấy xác chết của đối phương để lại. Sau đó trung đội này rút êm về căn cứ.

Quân đội Bắc Việt đặt ống dẫn dầu từ Vinh, Nghệ An, Bắc Việt Nam qua đèo Mụ Giạ, vượt Tây Trường Sơn. Hệ thống dẫn dầu này dài trên 25 dặm, tới Bộ Tư lệnh tiền phương Đoàn 559, trong khu vực của mục tiêu Oscar Eight, trên hướng tây nam căn cứ Khe Sanh, thuộc lãnh thổ Lào, sau đó con đường uốn khúc quanh co trở vào thung lũng A Sầu, thuộc lãnh thổ Việt Nam. Mục tiêu chính của 2 toán biệt kích và lực lượng xung kích là tìm hệ thống đường ống dẫn dầu trong vùng phòng thủ kiên cố của đối phương để phá hủy.

Toán biệt kích Kansas do Eulis “Camel” Presley làm trưởng toán, có nhiệm vụ xâm nhập khu vực phía tây thung lũng A Sầu, tìm kiếm đường ống dẫn dầu bí mật dọc theo đường 922. Nhưng chỗ nào cũng có Quân đội Bắc Việt. Toán biệt kích cố lẩn tránh chỉ được 1 ngày thì chạm trán với đối phương, phải gọi trực thăng đến bốc ra. Một trung đội Hatchet Force được đưa vào, đụng độ ác liệt với Quân Bắc Việt. Trung đội Hatchet Force bị thiệt hại phân nửa, cuối cùng cũng phải bốc họ, đem về hậu cứ tại Đà Nẵng.


Bù Lách, 1968. Tập trung dân để trực thăng chuyển đến chỗ mới

Đêm 9/1/1970, máy bay AC 130 Spectre (Hỏa Long) của Mỹ bắn phá hai mục tiêu tình nghi là trạm bơm nhiên liệu của đối phương, nằm về hướng tây vùng phi quân sự, làm cháy kho nhiên liệu. Một chiếc phản lực Phantom F4 thả những quả bom loại 500 cân Anh xuống, gây thành đám cháy lớn. Trận đánh bom phá hủy hơn 60 xe Molotova, trong đó có 2 chiếc xe chở dầu.

Quân đội Bắc Việt Nam tiếp tục chở đồ tiếp tế trên con đường 110 của đất Lào. Ngày 23/2/1970, SOG mở cuộc hành quân Halfback, tái diễn trận đóng chốt cắt đường như năm 1969. Lực lượng hành quân do đại đội Hatchet Force B ở Kontum đảm nhiệm. Đại đội này đổ bộ đúng vị trí ngọn đồi mà Đại đội A đóng chốt năm ngoái.

Được hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ gồm các loại máy bay A1 Skyraider, Phantom F4 oanh kích ban ngày; AC119, AC130 tấn công ban đêm; trong trường hợp bị mây che phủ, các cuộc oanh kích không thực hiện được thì đại đội biệt kích sẽ được pháo binh 175 ly của trại Bạch Hổ bắn yểm trợ. Cùng thời điểm trên, một toán biệt kích Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn hoạt động cách đó một dặm đã đụng độ với một trung đội của đối phương. Trưởng toán biệt kích Lôi Hổ, cùng một biệt kích quân bị thiệt mạng, bộ phận còn lại phải thoái lui.


Quân đội Bắc Việt tấn công dữ dội lên đồi, nơi toán Lôi Hổ trụ lại. Thiếu úy Billy Potter bị thương nặng ở ngực bởi 1 viên đạn AK. Một chiếc trực thăng được phái đến để di tản thương binh, nhân cơ hội đó, một Trung sĩ do quá sợ, nên đã lẻn lên máy bay. Rich Ryan kể lại, với vẻ khinh miệt: “Chúng tôi không biết anh ta biến đi lúc nào!". Đó cũng là chiếc trực thăng duy nhất bay thoát ra được trong ngày.

Đối phương điều thêm súng phòng không vào vùng chiến sự, với quyết tâm phải nhổ cái chốt của đại đội xung kích. Với hỏa lực phòng không quá mạnh, đối phương đã làm cho máy bay Hỏa Long không bao vùng được nữa. Quân Bắc Việt bắt đầu đào địa đạo sát vào mục tiêu để tấn công. Đêm đó, một bức công điện của phòng liên lạc SOG từ Sài Gòn gửi ra Kontum, cho biết Trung đoàn 27 Bắc Việt, với hơn 1.500 quân đang trên đường di chuyển đến để đánh dứt điểm đại đội Hatchet Force. Thiếu tá Frank Jaks, sĩ quan hành quân trình lại với Chỉ huy trưởng sở chỉ huy Trung (CCC), yêu cầu cho đại đội xung kích rút quân, nếu không sẽ bị tiêu diệt.

Theo kế hoạch, đại đội xung kích sẽ di chuyển đến một bãi đáp cách đó chừng 1 cây số, rồi trực thăng sẽ đến bốc trước khi đối phương kịp phản ứng. Đồng thời một chiếc Kingbee sẽ đưa một y tá là Thượng sĩ William Boyle đến để chăm sóc những biệt kích quân bị thương. Hỏa lực phòng không của đối phương đã bắn rơi chiếc Kingbee. Nó nổ tung khi chạm đất, xác Thượng sĩ William Boyle không tìm ra.

Thêm hai chiếc Kingbee khác thuộc phi đoàn 219 của Không quân Quân đội Sài Gòn vào cũng rớt luôn. Quân đội Bắc Việt quyết tâm không cho biệt kích chạy thoát. Presley đang ở dưới hầm, được một biệt kích quân người Thượng duy nhất chưa bị thương vào cho biết: Tất cả đại đội đều chết, đối phương đã chiếm được ngọn đồi chốt chặn.

Bay trên đỉnh đồi, Trung sĩ nhất Lloyd O’Daniels chỉ điểm các phi tuần lên yểm trợ. Máy bay khu trục A1 Skyraider đến trước để thả bom CBU 19 (Cluster), có hơi cay để làm mờ mắt các xạ thủ súng phòng không của Quân đội Bắc Việt. Sau đó các phản lực cơ F4 sẽ thả bom nổ chậm trong vòng 8 giờ đồng hồ, làm thành bãi mìn cản phía sau đại đội xung kích. Các phi tuần F4 khác đánh bom dọn đường cho đại đội xung kích di chuyển đến mục tiêu. Sau cùng, trực thăng Cobra sẽ bắn hỏa tiễn khói làm bức màn ngụy trang cho trực thăng vào bốc các biệt kích quân Mỹ ra.

Sau cuộc hành quân Halfback, Đại đội B ứng cứu Hatchet Force cần ít nhất 6 tháng để bổ sung quân và tái huấn luyện. Đến tháng 8/1970, đại đội này mới sẵn sàng tham gia hành quân, cũng là lúc CIA yêu cầu Đại tá Skip Sadler cho một đơn vị Hatchet Force hành quân đến gần Chavane (Lào), để yểm trợ cho biệt kích quân Vàng Pao, người H'mong, do CIA tuyển mộ, yểm trợ và nuôi dưỡng.


Mục tiêu này cách xa 20 dặm, nằm ngoài vùng hoạt động của SOG. Tuy nhiên, việc này đã được vị Đại sứ Mỹ ở Lào chấp thuận. Cuộc hành quân Tailwind được mở, nhắm đến những mục tiêu trên. Đây cũng là lần đầu tiên, Đại đội Hatchet Force được lệnh tấn công sâu vào vùng đối phương chiếm đóng, cũng là nơi đối phương chủ quan, không phòng thủ vững vàng như căn cứ Trug ương cục miền Nam hay mục tiêu Oscar Eight gần biên giới Việt – Lào. Ngày 4/9/1970, Đại đội B ở Kontum được lệnh sẵn sàng. Đại đội trưởng đại đội này là Đại úy Eugene Mc Carley, có nhiều kinh nghiệm qua những chuyến xâm nhập trên lãnh thổ Việt Nam, cộng thêm 15 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh và khoảng 110 biệt kích Thượng.

Ngày 11/9/1970, bốn đại đội xung kích ở Kontum được 12 chiếc Cobra của thủy quân lục chiến yểm trợ và trực thăng CH47 chở, ghé căn cứ Dakto lấy thêm xăng, rồi cất cánh. Đoàn trực thăng bay dọc theo biên giới, sau đó đổi sang hướng tây đến Chavane. Trong vòng 4 ngày, những chiếc máy bay trực thăng Cobra, A1, F4 thay nhau bay bao vùng, sẵn sàng yểm trợ cho đại đội xung kích. Đơn vị này liên tục di chuyển, phá hủy nhiều kho dự trữ đạn dược, binh trạm của đối phương. Cuộc hành quân coi như thành công.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P23




Đại tá Skip Sadler, Chỉ huy trưởng SOG, tại căn cứ Long Thành


HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH
Mỗi căn cứ hành quân tiền phương (FOB) của SOG tại Đà Nẵng, Phú bài, Kontum, Buôn Mê Thuột có khoảng 12 toán biệt kích của Mỹ, do sĩ quan, hạ sĩ quan Mũ Nồi Xanh làm trưởng toán (không kể các toán Lôi Hổ, do sĩ quan Quân đội Sài Gòn làm trưởng toán). Tuy nhiên, lúc nào cũng chỉ có 6 toán sẵn sàng hành quân; 6 toán còn lại bị tổn thất, phải đợi bổ sung quân số và huấn luyện.


Huấn luyện tại căn cứ

Đầu năm 1968, toán biệt kích Maine ở Kontum sắp kết thúc nhiệm kỳ luân phiên 6 tháng. Trưởng toán Fred Zabitosky đã sẵn sàng cho chuyến đi cuối cùng của anh ta. Toán phó là Trung sĩ Doug Glover bị thương trong hai chuyến xâm nhập trước. Zabitosky từng tham dự hai chuyến xâm nhập Bright Light tìm một trưởng toán bị đối phương bắt, giam giữ và một chuyến khác tìm Charlie White bị rơi xuống từ dây cấp cứu Mc Guire tại Campuchia.

Lần này, Zab sẽ xâm nhập mục tiêu Bra. Đó là một khúc sông uốn quanh, nơi đường 110 tách ra khỏi đường 96 trên hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đi về hướng đông. Tại mục tiêu Bra, quân chính quy Bắc Việt xây binh trạm số 37, một căn cứ lớn với nhiều kho tiếp vận, đạn dược. Quân Bắc Việt dùng binh trạm này để chuyển quân, tiếp tế vũ khí, trang bị, tiếp liệu vào vùng cao nguyên Nam Trung Bộ và bắc Campuchia. Căn cứ này được bảo vệ bởi hỏa lực phòng không rất mạnh, với một tiểu đoàn cảnh vệ và một đơn vị chống biệt kích. Mục tiêu Bra được coi như điểm nóng nhất khu vực nam Lào, khó khăn hơn những mục tiêu trước đây như Juliet, Hotel. India và November Nine.


Khu phi quân sự, 8/1966. Thủy quân lục chiến Mỹ trong chiến dịch Prairie

Sau này, Lowell Stevens, trưởng toán biệt kích kể lại: “Khi danh sách các mục tiêu đưa ra, tôi ngồi giấu mình im lặng, tôi không muốn Bra nổi tiếng, nhưng hy vọng và cầu nguyện không phải nhận mục tiêu đó”. Một trưởng toán khác, Lloyd O’Daniels cảnh báo: “Bạn nên đem theo đầy đủ đạn dược, vì bạn sẽ cần đến nó, không lâu đâu”.

Hai tuần lễ sau khi cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968 bắt đầu, thành phố Huế vẫn còn trong tay đối phương; căn cứ Khe Sanh bị bao vây. Toán biệt kích Maine xâm nhập mục tiêu Juliet Mine (Bra) để do thám Quân đội Bắc Việt đang rút quân nhằm tăng cường thêm quân và tiếp tế cho trận tấn công của họ trên Tây Nguyên. Doug Glover vừa mới xuất viện, sẽ thay Zabitosky làm trưởng toán, nên chuyến này để cho Glover làm quyền trưởng toán, Zabitosky làm phó. Toán Maine có thêm Trung sĩ Purcell Bragg.

Không toán biệt kích nào xâm nhập mục tiêu Bra mà không biết sợ. Toán Maine được hai trực thăng Huey thả xuống, Glover dẫn toán ra khỏi bãi đáp đếm một chỗ rậm rạp. Anh ta đâu biết đã đưa toán vào một hẻm núi, rộng khoảng 300 thước. Toán biệt kích phát hiện ra một dãy hầm hào, công sự của đối phương. Zabitosky đang xem xét các hầm hào, công sự để xác định các công trình này được xây lúc nào, bỗng một trung đội lính Bắc Việt bất ngờ tấn công toán biệt kích. Toán Maine vừa lùi ra, vừa bắn trả đối phương.

Glover nói thật to cho Zabitosky nghe: “Ông chỉ huy đi!”. Cùng lúc, Bragg cũng báo cáo: Covey, máy bay quan sát điều không FAC cho biết có hai toán biệt kích đang chạm trán với đối phương, nên toán Maine phải ráng “gồng mình” trong vòng 45 phút. Zab ra lệnh cho Glover đưa toán trở lại bãi trực thăng, lập vị trí phòng thủ, còn anh ta sẽ ở lại cầm chân đối phương, không cho xán lại gần.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P24



Ban tình báo của SOG sau này cho biết: Hẻm núi đó là Sở chỉ huy Trung đoàn của đối phương, mà cũng có thể là Sở chỉ huy binh trạm 37. Zab tiếp tục ném lựu đạn, bắn cầm chân đối phương chừng nửa giờ, rồi chạy ra bãi trực thăng. Tại bãi đáp, Glover đã tổ chức xong vị trí phòng thủ và đang chỉ điểm cho các phi tuần khu trục A1 đánh bom yểm trợ cho toán biệt kích. Trong lúc Zab còn trong hẻm núi, Quân đội Bắc Việt đem súng máy phòng không 12 ly 7 đến. Covey cho biết thêm, quan sát thấy bốn đại đội của đối phương đang trên đường đến vị trí toán biệt kích và một đại đội đã đến gần.

Huế, 1968. Y tá chiến trường Howe chăm sóc cho Binh nhất Crum, TQLC Mỹ.

Trên vùng trời đảm trách, chiếc máy bay quan sát vẫn liên lạc với toán biệt kích ở dưới. Covey hỏi Zab:

- Anh đã tập hợp đủ mọi người chưa?
- Đủ, có chuyện gì không?
- Cách anh chừng 400 thước về hướng tây có chỗ an toàn hơn cho “gia đình” anh.

Điều rất nguy hiểm là đưa trực thăng vào bốc toán biệt kích, trong khi bãi này có hỏa lực phòng không mạnh và đối phương tập trung quân đông. Trong khi những chiếc máy bay khu trục, trực thăng vũ trang oanh tạc xung quanh bãi đáp thì Covey hướng dẫn toán Maine chạy khoảng 150 thước theo hướng đông nam, dọc theo con suối, qua một cánh rừng đến bãi đáp khác an toàn hơn. Họ đến một khoảng đất trống trải, không bị đối phương đuổi theo. Covey điều một trực thăng vào bốc toán Maine. Mọi người đều nín thở, Purcell Bragg cùng hai biệt kích Thượng chạy ra lao lên trực thăng, chiếc máy bay bốc lên cao qua khỏi ngọn cây. Thế là thoát.

Toán biệt kích còn lại gồm Zab, Glover và bốn biệt kích Thượng đợi chiếc thứ hai. Hàng trăm quân đối phương đang bao vây ba mặt bãi đáp, xung phong tấn công. Khu trục A1, cùng trực thăng vũ trang đến bắn hỏa tiễn xung quanh bãi đáp cho chiếc trực thăng thứ hai vào bốc số biệt kích quân còn lại. Khi trực thăng đáp xuống, toán biệt kích vừa chạy ra trực thăng vừa bắn xối xả. Quân Bắc Việt cũng nhào ra sống chết không để toán biệt kích chạy thoát. Khi chiếc trực thăng bốc lên cao khoảng 75 bộ, B40 của đối phương bắn trúng máy bay. Chiếc trực thăng rơi xuống, đứt làm đôi và bốc cháy.


Cà Mau, 12/11/1962

Bị thương, lại cháy xém hết quần áo, Zabitosky chạy lại chiếc trực thăng đang bốc cháy, lôi ra được viên phi công cùng người phi công phụ. Còn Doug Glover và bốn biệt kích Thượng, hai trung sĩ xạ thủ đại liên Melvin Dye, Robert Griffith đều chết. Trên một chiếc Huey khác bay cao khoảng 3000 bộ (915 m), quân y sĩ Luke Nance nhìn xuống chiếc trực thăng đang bốc cháy, nói to cho người phi công biết: “Có người còn sống ở đưới! Đáp xuống để tôi cứu họ!”. Hai viên phi công nghi ngờ Quân Bắc Việt đang lục soát xác chiếc trực thăng, nên trả lời: “Tốt hơn mình nên ra khỏi chỗ này!”. Nance cương quyết: “Không! Mình không đi đâu hết! Phải xuống cứu mấy người ở dưới đó”. Cuối cùng viên phi công phải bay xuống.

Mặc cho đạn AK, đạn 12 ly 7 bắn lên, chiếc trực thăng vẫn lao xuống, Nance thấy rõ Zabitosky ngã lên ngã xuống, cố gắng lôi hai viên phi công về hướng có tiếng trực thăng. Nance chạy lại giúp Zab lôi 2 viên phi công lên trực thăng, anh ta không nhận ra Zab, mặt mày bị cháy đen xì. Tất cả đều thoát, được đưa về quân y viện Mỹ tại Pleiku an toàn. Tướng Westmoreland đích thân đến quân y viện thăm, trao Huy hiệu thương binh dũng cảm và đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự hạng nhất cho Zabitosky.

Bốn tháng sau, một toán biệt kích khác cũng từ Kontum (FOB 2), do John Kedenburg làm trưởng toán, xâm nhập đường 110, cách mục tiêu Bra 12 dặm về hướng đông. Toán biệt kích chạm súng với một toán tuần tiễu của đối phương, sau đó Quân Bắc Việt điều một tiểu đoàn đến bao vây toán biệt kích. Sáu tháng trước đó, Kedenburg chứng tỏ sự can đảm của mình, đã đem về được xác của Trung sĩ nhất Dan Wagner, trưởng toán Nevada, nên được giao cho trách nhiệm làm trưởng toán.


Chu Lai, 7/4/1969. UH-1D được câu bởi Chinook thuộc Lữ đoàn 196 bộ binh

Toán nevada bị đối phương đuổi theo sát nút, mỗi lần toán ngừng lại thở, Quân Bắc Việt lại bắt kịp. Hai bên ổ súng rồi toán biệt kích lại chạy tiếp. Cuối cùng, Kedenburg nằm lại cản đường cho đồng sự chạy, rồi anh chạy sau. Khi bắt kịp toán, một biệt kích Thượng chạy lạc, Kedenburg không thể hy sinh cả toán để ở lại chờ một người. Biết đâu tay biệt kích Thượng kia đã bị đối phương bắt hoặc chết. Kedenburg liên lạc với đơn vị ứng cứu, yêu cầu bốc toán biệt kích về. Họ nghĩ rằng đã cắt đuôi được lính Bắc Việt.

Khi trực thăng tới thả dây câu xuống câu lên được 4 biệt kích, Kedenburg chỉ điểm cho máy bay khu trục A1 bắn chặn đường. Chiếc Huey thứ hai đến thả bốn sợi dây cấp cứu xuống cho anh ta cùng ba biệt kích quân còn lại. Lúc đó đối phương đã băng qua lưới lửa do những chiếc A1 tạo nên. Đúng lúc người biệt kích Thượng chạy lạc cũng xuất hiện, do trông thấy trực thăng bao vùng. Thay vì cho trực thăng bay đi, Kedenburg tháo dây McGuire ra nhường cho người biệt kích Thượng, rồi ra dấu cho trực thăng bay lên, còn một mình ở lại đối phó với đối phương.


John Kedenburg

Mọi người trên trực thăng chứng kiến Kedenburg bắn chết 6 người lính Bắc Việt trước khi gục ngã. Hôm sau toán cấp cứu Bright Light vào đem được xác John Kedenburg về. Anh ta là người thứ hai trong lực lượng SOG được truy tặng Huy chương danh dự.

Thêm một tên tuổi nữa khá nổi tiếng ở Kontum. Anh ta là bạn của Zabitosky và Kedenburg. Đó là Trung sĩ nhất Robert Howard, người có thân hình lực lưỡng như thợ đốn củi. Robert Howard đến Kontun (FOB 2) vào đầu năn 1967, anh ta được đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự 3 lần, trong vòng 13 tháng. Mọi người đều nghĩ rằng anh ta xứng đáng với những phần thưởng ấy. Cho tới nay, Howard là người lãnh nhiều huy chương nhất, kể cả 8 cái “Chiến thương bội tinh”. Một đêm, Howard chạy tới xe chở quân của đối phương trên đường 110, ném mìn vào xe, trước con mắt ngạc nhiên của Quân Bắc Việt, rồi cho nổ tung quả mìn.


Robert Howard (bìa trái), trong một lần đột kích bat tù binh Viet Cong thành công, tại Sở chỉ huy Trung (CCC)

Howard được đề nghị tặng thưởng Huy chương danh dự lần đầu vào tháng 11/1967, khi toán biệt kích do Johnnie Gilreath làm trưởng toán phát hiện ra kho vũ khí, lương thực lớn của đối phương ở vùng đông nam Lào. Trong lúc Gilreath cùng các thành viên của toán tiếp tục theo dõi hoạt động của đối phương, thì SOG chuẩn bị cho đại đội xung kích Hatchet Force tấn công. Howard tình nguyện làm trưởng toán, hướng dẫn đại đội xung kích từ bãi đáp đến chỗ toán của Gilreath.

Nhưng bất ngờ không đến mãi, ba chiếc trực thăng đổ quân bị hỏa lực phòng không đối phương làm hỏng nặng. Howard dẫn được đại đội xung kích Hatchet Force đến vị trí toán biệt kích. Trong lúc đại đội xung kích phá hủy kho vũ khí, lương thực của đối phương, Howard dẫn toán biệt kích đi quan sát xung quanh, bắn hạ thêm 4 lính Bắc Việt, phá hủy thêm mấy trận địa giả của đối phương.

Sau trận tấn công, chỉ huy trưởng SOG đưa Gireath và Howard vào Sài Gòn tường trình về trận đánh cho tướng Westmoreland. Gilreath được cho đi học lái máy bay theo nguyện vọng của anh ta. Howard trở lại Kontum với Huy chương Ngoại Hạng (Distinguish Services Cross).

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P25





Huy chương Ngoại Hạng (Distinguish Services Cross)

Mục tiêu Bra, nơi Zabitosky lĩnh Huy chương Danh dự vẫn là chỗ nguy hiểm nhất cho những toán biệt kích. Toán California do Joe Walker làm trưởng toán, tổ chức trận phục kích đơn vị chống biệt kích của đối phương, nhưng thất bại vì khẩu CAR15 của toán phó gặp trở ngại tác xạ. Quân đội Bắc Việt bắn trở lại bằng B40 làm tất cả mọi người trong toán đều bị thương.


Toán California tại Sở chỉ huy Trung (CCC)

Toán California phải lẩn trốn suốt đêm. Sáng hôm sau, một trung đội xung kích do Trung úy Daniel Swain chỉ huy xuống bãi đáp để đón toán California. Joe Walker cùng ba biệt kích Thượng tình nguyện ở lại giúp trung đội xung kích. Trung đội này được lệnh di chuyển dọc theo đường 96 vào sâu mục tiêu Bra, để tìm mục tiêu cho phi cơ oanh kích hoặc tấn công trên bộ.

Trung đội xung kích lục soát về hướng bắc hai ngày, không gặp đối phương, không một phát súng bắn tỉa. Walker cảm thấy không an tâm, càng lâu càng nguy hiểm và không ngờ rằng đối phương sẽ đến. Đêm thứ hai, họ đóng quân, lập tuyến phòng thủ giữa đường 96 và một nhánh sông rộng. Họ tin rằng quân Bắc Việt không thể tấn công từ bên kia sông sang. Nhưng nếu đối phương đánh từ đường vào, trung đội xung kích sẽ bị mắc kẹt, vì đằng sau là sông, hết đường chạy.

Walker cùng ba biệt kích Thượng của toán California không đào công sự chiến đấu, họ chui vào một bụi tre ngủ. Khoảng 3 giờ sáng, Walker thức giấc nhìn đồng hồ và nghe thây tiếng xe vận tải. Chiếc đầu ngưng lại cách khoảng 200 thước, rồi chiếc thứ hai, thứ ba... anh ta còn nghe được tiếng mở bửng sau xe vận tải Molotova do Liên Xô chế tạo, trang bị cho Quân đội Bắc Việt Nam. Viên sĩ quan Bắc Việt dùng loa tập hợp quân để tấn công. Trong những công sự chiến đấu gần đó, khẩu đại liên M60 đã được lắp đạn. Lúc đó, ánh sáng phát ra từ những cây đèn pin của đối phương quét qua, quét lại loang loáng xuyên màn đêm.


Đông Hà, 29/9/1966

Khẩu đại liên M60 nhả đạn trước, tiếng nổ xé tan màn đêm im lặng, Quân Bắc Việt tập trung hỏa lực tấn công vào tuyến phòng thủ của đơn vị biệt kích SOG. Đạn và mảnh ghim vào lưng, vào đùi Walker. Một góc trận địa phòng ngự của quân biệt kích bị vỡ, Quân Bắc Việt tràn vào bên trong đánh cận chiến. Trung úy Swain, Ranger Haynes bò qua chỗ Walker, nhưng một trái cối đã nổ đằng sau hai người khiến Swain bị thương nặng ở chân. Mặc dù bị thương, Walker vẫn cố gắng bò ra chỗ khác, kéo theo Trung úy Swain. Một hạ sĩ quan da màu Mỹ vừa đứng dậy, liền hứng hàng chục viên AK, anh ta kêu lên, rồi đổ xuống đất.

Walker tiếp tục bò về hướng bờ sông, lôi theo Swain. Anh ta vẫn đem theo khẩu đại liên M60 và tìm được chỗ cạn vượt qua sông. Bên kia đã có mấy biệt kích Thượng bị thương đang lẩn trốn. Nhìn lại bên kia sông, Walker thấy đèn pin của Quân Bắc Việt đi thu dọn chiến trường. Walker nhớ đến Swain, vội bò trở lại kéo Trung úy Swain lên bờ, lấy poncho cuốn lại. Anh ta không hề có thuốc men để chữa cho ông Trung đội trưởng trung đội xung kích.



Tại Kontum, khi nhận được tin, Đại úy Ronal Goulet đánh thức Howard dậy thông báo: “Mình phải đi cứu Walker và Swain”. Một số hạ sĩ quan biệt kích khác cũng tình nguyện đi theo. Toán cấp cứu Bright Light gồm 12 người, do oulet chỉ huy, xâm nhập vào tìm kiếm quân nhân Mỹ tử trận hoặc mất tích. Trong màn đêm mịt mù, toán biệt kích Bright Light dò dẫm tìm Walker và Swain. Họ sờ từng xác chết một, xác nào chân dài là người Mỹ, cuối cùng họ tìm được Walker và Swain.

Đợi đến sáng, những chiếc máy bay oanh kích trở lại bao vùng. Toán Bright Light vượt sông, tới trận địa phòng ngự của trung đội xung kích khi đêm. Họ tìm được xác người hạ sĩ quan da màu Mỹ, cùng các quân nhân khác bị thương.


Dakto, 11/1967. Đồi 875 sau 21 ngày bị bao vây
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P26



Giữa tháng 11, Howard tình nguyện trở lại mục tiêu Bra, cùng với một đại đội Hatchet Force để phá hoại, nhằm ngăn Quân đội Bắc Việt đang bao vây quân biệt kích của Vàng Pao, vốn được CIA nuôi dưỡng, đang đóng quân ở sâu trong đất Lào. SOG hy vọng “vố” này sẽ khiến cho Quân đội Bắc Việt phải đưa quân về giữ mục tiêu Bra. Đại đội xung kích Hatchet Force do một viên Đại úy chỉ huy, thêm Trung úy James Jerson, cùng một số hạ sĩ quan, trong đó có Lloyd O’Daniel thuộc trung đội 1.



Đơn vị này cũng không gặp đối phương bắn tỉa trong suốt bốn ngày đầu lục soát tại khu vực đường 96. Vùng này bị máy bay B52 ném bom trải thảm nhiều lần, trông rất tan hoang, cây cối đổ nát. Trước đây, vùng rừng núi này rất rậm rạp. Quân đội Bắc Việt tránh đụng độ như trước đây, giống với trung đội của Trung úy Swain. Đến đêm 16/11, khoảng 100 lính Bắc Việt tấn công vào trận địa phòng ngự của Đại đội Hatchet Force, rồi lại rút lui, không hề để lại dấu vết. Ngày 18/11, toán biệt kích bị quân Bắc Việt phục kích nhỏ, sau đó họ lại biến mất (!). Quân Mũ Nồi Xanh đoán chừng ý định của đối phương: “Có lẽ ngày mai mới đúng là ngày quyết tử”.

Sáng sớm 19/11, Howard thấy một Thiếu úy trẻ đi đầu thay vì 1 lính Thượng đầy kinh nghiệm. Rồi người sĩ quan trẻ tiếp tục dẫn đường và tìm thấy đường dây điện thoại. Dò theo đường dây đến một bụi cây, viên sĩ quan phát hiện ra một chòi quan sát, có một bát cơm vẫn còn nóng, anh ta biết ngay quân Bắc Việt sắp tấn công. Viên Thiếu úy vẫn tiếp tục dẫn đầu, đến một khoảng trống, anh ta định dẫn đại đội băng qua. Mấy người biệt kích Thượng ngần ngừ đợi lệnh và Đại úy đội trưởng ra lệnh: “Tiếp tục!”. Howard chạy lên trước cản viên Thiếu úy lại: “Bên kia cánh rừng có người, coi chừng!”. Anh ta lắc đầu trả lời: “Tôi sẽ giết hết tụi nó. Hãy chờ xem!”.

Viên Thiếu úy bắn phát đầu tiên trúng một lính đối phương. Thế rồi súng B40, súng cối thi nhau nổ chát chúa vào đội hình trung đội đi trước. Một quả cối 62 ly nổ gần chổ người sĩ quan trẻ, làm bay mất bàn chân phải và gần đứt bàn chân trái của anh ta. Howard đang lo băng bó cho viên Thiếu úy thì một trái B40 khác nổ gần bên, khiến nhiều mảnh đạn ghim vào lưng và chân anh ta. O’Daniel không ngờ, Howard nổi điên đứng dậy trở về trong lúc súng nổ như mưa, kể cả súng máy phòng không 12 ly 7 trên chiếc xe thiết giáp PT-76. Howard định dùng súng phóng hỏa tiễn M72 diệt chiếc thiết giáp của đối phương, thì một trái B40 khác nổ gần đó làm hỏng khẩu M72, thêm một sĩ quan khác bị thương. Howard dìu viên sĩ quan quay về ban chỉ huy đại đội, dẫn theo hai biệt kích Thượng bắn yểm trợ, còn anh ta đem theo hai khẩu M72 lên, bắn gục chiếc thiết giáp của Quân Bắc Việt.


An Lộc

Trong lúc đó, đại đội xung kích Hatchet Force phải lui về nơi có cây cối che chở để lập tuyến phòng thủ. Trực thăng tải thương được gọi đến, nhưng bị súng phòng không của đối phương bắn lên trúng đầu gối của xạ thủ đại liên. Anh ta thét lên đau đớn, đến nỗi ở dưới đất cũng nghe thấy. Chiếc trực thăng tiếp tục ăn đạn, chao đi rồi bốc cháy. Đối phương bắt đầu tấn công vào trung đội biệt kích dẫn đầu. Mặc dù đã hai lần bị thương nhưng Howard vẫn chạy lại chiếc trực thăng đang cháy, lôi ra một xạ thủ đại liên, còn người xạ thủ bên cạnh đã chết. Viên phi công chính giúp người phi công phụ ra khỏi máy bay, chạy về trận địa phòng ngự của đại đội xung kích.

Hôm sau, những chiếc phi tuần lên yểm trợ cho trực thăng vào tải thương, vừa chở đại đội Hatchet Force về căn cứ. Howard được đề nghị tặng thưởng Huy chương Danh dự lần thứ hai trong vòng một năm. Ba tuần sau, Howard lại tình nguyện đi theo toán biệt kích vào mục tiêu khó nuốt Bra.

Toán biệt kích do Larry White làm trưởng toán, ngoài ra còn có Trung sĩ Robert Clough, một sĩ quan biệt kích Quân đội Sài Gòn và sáu biệt kích Thượng. Tại bãi đáp chính, họ gặp đối phương bắn lên. Trực thăng phải bay đến bãi đáp thứ hai, cũng bị bắn; đến bãi đáp phụ thứ ba, thì bị súng phòng không của đối phương bắn rơi luôn chiếc trực thăng. White bị trúng đạn, rơi ra ngoài. Còn tay xạ thủ đại liên bị trúng đạn, gục bên cạnh khẩu M60, viên sĩ quan biệt kích Quân đội Sài Gòn trúng đạn chết. Ai cũng ăn đạn, chỉ trừ hai người là Howard và Clough.




NHẢY DÙ XÂM NHẬP HALO

Chuyến giải cứu tù binh đầu tiên (Bright Light) do SOG thực hiện trong năm 1966, sau khi hai tiểu đoàn Quân Giải Phóng tiêu diệt cả trung đội do Huckleberry và Charlie Vessels chỉ huy. Sau nhiều phi vụ tập kích không thành công, chỉ huy trưởng SOG là Đại tá Jack Singlaub nhận thấy rằng có dấu hiệu cho thấy tù binh Mỹ đã được di chuyển đến nơi khác, chừng vài giờ trước khi quân biệt kích tấn công. Những sĩ quan tham mưu của SOG đặt ra nhiều câu hỏi cần lời giải đáp. Thiếu tá Ed Rybat, chỉ huy trưởng Sở chỉ huy tiền phương 1 (FOB 1) cũng băn khoăn: “Hình như đối phương biết mình trên đường đến mục tiêu”.


CH-47 tại đường 9 Nam Lào, 1968

Bước sang năm 1969, tình hình trở nên nghiêm trọng. Đại tá Steve Cavanaugh lên thay Jack Singlaub làm chỉ huy trường SOG, luôn quan tâm đến vấn đề an ninh nội bộ. Ông ta đến thăm các căn cứ hành quân tiền phương, hỏi thăm các toán trưởng biệt kích và đem theo toán an ninh lục quân Mỹ là Đại đội 101 kiểm thính để theo dõi tất cả các cuộc điện đàm trong các đơn vị SOG. Trong khi đó, các toán biệt kích xâm nhập đều biết rằng, đối phương cũng dò tần số liên lạc của họ để “thịt” các toán biệt kích xâm nhập. SOG phải tìm giải pháp xâm nhập khác để bảo vệ các toán biệt kích. Xâm nhập ban đêm, không sợ đối phương phát giác, nhưng các phi cơ trực thăng không được an toàn khi xuống bãi đáp trong màn đêm. Chỉ còn cách là nhảy dù xuống mục tiêu, xâm nhập vào lúc ban đêm.

Khi trưởng toán biệt kích Auger là Frank Oppel yêu cầu được phép nhảy dù xuống khu vực Lưỡi Câu trên đất Campuchia trong tháng 12/1969, Bộ chỉ huy SOG chấp thuận ngay. Chỉ có một trở ngại nhỏ, khi Oppel báo tin vui cho các thành viên, anh toán phó “lạnh chân” không chịu đi, phải tìm người khác thay thế, đó là Bob Graham mà sau này rất nổi tiếng ở Sở chỉ huy tiền phương Nam (CCS).


Hatchet Force xuất kích tại Dakto

Toán Auger gồm hai biệt kích quân Mỹ là Oppel, Graham cùng với ba biệt kích quân Nùng, bắt đầu tập nhảy dù từ trực thăng xuống, do phi công Green Hornet lái. Sau một tuần lễ thực tập nhảy dù đêm, đúng bốn giờ sáng ngày 23/12/1969, toán biệt kích Auger nhảy dù xuống, xâm nhập khu vực Lưỡi Câu trên lãnh thổ Campuchia. Họ xuống tới đất, nhanh chóng tập hợp. Tuy nhiên, có một biệt kích nùng bị trật chân, nên sáng hôm sau trực thăng phải vào bốc toán biệt kích đem về.


Điều ngạc nhiên là chiếc trực thăng vẫn còn bay được, mọi người lại chui vào chiếc trực thăng và bốc lên cao, trước khi đối phương xông ra bắn tới tấp. Ba tuần sau, Howard theo một chuyến hành quân Bright Light sang Campuchia. Lần này anh ta được tặng Huy chương Danh dự thật sự.
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P27



Năm 1970, Đại tá John Sadler thay thế Đại tá Cavanaugh làm chỉ huy trưởng SOG. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhảy dù và skydiving (nhảy dù cánh dơi để lướt gió). Thuật ngữ quân sự gọi là HALO (High Altitude Low Opening). Nhảy dù HALO từ độ cao 10.000 bộ (3.050m), để rơi tự do, cách mặt đất khoảng 1.000-2.000 bộ (305-610m), rồi mở dù cánh dơi lái đến mục tiêu. Mặc dù lực lượng biệt kích Mỹ đã huấn luyện nhảy dù cánh dơi HALO từ năm 1957, nhưng Quân đội Mỹ cũng như quân đội các nước trên thế giới chưa từng sử dụng HALO trong chiến trận.

Tháng 7/1970, đại tá Sadler ra lệnh thành lập toán biệt kích HALO đầu tiên. Trung sĩ Cliff Newman và Trung sĩ nhất Sammy Hernandez đang chỉ huy toán biệt kích Virginia thám thính khu vực lân cận Khe Sanh, bỗng được lệnh tìm một bãi đáp gần nhất để rút quân. Toán biệt kích HALO đầu tiên gồm có Newman, Hernandez, thêm Trung sĩ nhất Melvin Hill, hai biệt kích quân người Thượng và một sĩ quan Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn. Mặc dù Newman cấp bậc thấp hơn hai viên Trung sĩ kia, nhưng anh ta có nhiều kinh nghiệm trong đơn vị SOG hơn, nên được cử làm trưởng toán HALO, lấy tên là toán Florida.



Sau đó, một chiếc C130, có biệt hiệu là Chim Đen (Blackbird), đã đưa toán biệt kích Florida qua Okinawa để huấn luyện kỹ thuật nhảy dù HALO. Họ được bí mật huấn luyện trong một khu vực riêng biệt, vì hai biệt kích quân Thượng và sĩ quan Lôi Hổ của Quân đội Sài Gòn bị chính phủ Nhật Bản từ chối không cho nhập cảnh.

Các huấn luyện viên được tuyển chọn là những bậc thầy về môn HALO trong Liên đoàn biệt kích số 1 của Mỹ. Khi nhảy ra khỏi phi cơ, chỉ cần 12 giây, con người đạt tới vận tốc rơi trong không khí 125 dặm mỗi giờ. Trong lúc thả rơ tự do, các quân nhân vẫn phải điều khiển thân mình theo hướng rơi tự do của nhóm. Khi bung dù cánh dơi ra, họ lái dù khoảng 2.500 bộ (762,5m) đến bãi đáp. Như vậy, nếu nhảy ra ở độ cao 12.500 bộ (3812,5m), để rơi tự do 60 giây, thêm hai phút rưỡi lái dù cánh dơi xuyên qua rừng đến bãi đáp, tổng cộng chỉ có ba phút rưỡi đồng hồ. Các quân nhân còn được trang bị thêm đồng hồ cao độ để mở dù tự động, trong trường hợp dù có chuyện bất trắc.

Sau một tháng huấn luyện ở Okinawa, toán biệt kích florida về tới Long Thành, huấn luyện thêm hai tuần về chiến thuật, và nhảy thêm vài kiểu HALO. Trong một chuyến thực tập nhảy dù đêm, Trung sĩ Hernandez bị gió thổi dạt qua một dãy nhà khác của Lục quân Mỹ. Một viên Trung sĩ chạy ra ngoài quan sát, vì Hernandez rơi trúng nóc nhà trước khi xuống đất. Nhìn thấy Hernandez vẫn còn vướng dù, bôi mặt ngụy trang, đeo kính che mắt, vũ trang đến tận răng: nào là khẩu CAR15, Shotgun cưa ngắn nòng, súng phóng lựu M79, dao găm, lựu đạn đeo đầy mình..., viên Trung sĩ văn phòng quỵ xuống, lên cơn đau tim vì tưởng lầm là lính dù cộng sản tấn công (!).



Lần cuối cùng thực tập, toán biệt kích nhảy dù đêm xuống chiến khu D, lục soát hai ngày, sau đó trở về căn cứ, sẵn sàng lên đường. Toán Florida có nhiệm vụ gắn máy nghe trộm điện thoại của Quân đội Bắc Việt ở Lào, trên con đường đối phương mới xây dựng, nằm về phía tây căn cứ Chu Lai. Mục tiêu này gần mục tiêu mà toán Iowa xâm nhập lần đầu tiên qua đất Lào năm 1965, trong cuộc hành quân Shining Brass. SOG phỏng đoán Quân Bắc Việt có khoảng một sư đoàn chính quy, với 10.000 quân, đóng trong khu vực hoạt động của toán Florida. Đơn vị Mỹ gần nhất cách họ 50 dặm, đó là căn cứ hỏa lực do Sư đoàn 101 Dù của Mỹ đóng quân.


Bồng Sơn, 1966. Sư Bạch Mã, Đại Hàn

Khoảng quá nửa đêm ngày 28/11/1970, toán biệt kích Florida tập hợp trong căn cứ Long Thành, rồi lên chiếc Balckbird, bay trên cao độ 18.000 bộ, như vậy toán HALO sẽ phải để rơi tự do 70 giây và sẽ mở dù lúc cách mặt đất 1.500 bộ (457,5m). Khi đèn báo hiệu bật lên, toán Florida từng cặp 2 người một nắm tay nhau nhảy ra. Đại tá Pinkerton nhận xét: “Họ phải có nhiều can đảm mới dám làm chuyện này, nhảy ra trong màn đêm xuống một cánh rừng mà không biết có chuyện gì đang chờ họ ở dưới”.

Toán biệt kích bị phân tán thành từng cặp gồm: Sĩ quan Lôi Hổ Việt Nam và một biệt kích Thượng; toán trưởng Newman cùng với một người Thượng; Sammy Hernandez và Mel Hill. Mỗi cặp đáp xuống một nơi. May mắn không ai bị thương. Đến sáng, máy bay quan sát Covey lên bao vùng cho toán biệt kích ở dưới biết, đêm qua họ đã bị thả sai vị trí, cách mục tiêu 6 dặm. Nơi họ xuống không được đánh dấu trên bản đồ hành quân mà toán biệt kích đem theo. Tuy thế, toán biệt kích Florida vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ.

Toán Florida chia thành bốn cặp, hoạt động độc lập. Họ phải thận trọng hơn, trường hợp một cặp bị lộ, nếu yêu cầu rút quân, có thể gây nguy hiểm cho những cặp còn lại. Hernandez tìm một chỗ đặt máy nghe trộm, anh ta lần mò về nơi phát ra tiếng người nói chuyện, tiếng xe ủi đất. Bỗng dưng có tiếng súng nổ phía bên trái, rồi bên phải. Đối phương bắn pháo hiệu? Họ đã tìm ra dấu vết của toán? Nhưng không. Mấy binh sĩ Bắc Việt đang đi săn thú rừng để có thêm thực phẩm tươi. Nếu họ tìm ra dấu chân của Hernandez, thì kể như “rồi đời”.


Chư pong, 15/8/1966

Đến ngày thứ ba, Hernandez trông thấy một toán lính Bắc Việt mang súng AK, vừa đi vừa nói chuyện. Như vậy chứng tỏ đối phương không biết có toán biệt kích HALO xâm nhập. Đến ngày thứ tư, tất cá các cặp biệt kích bất đắc dĩ đều trông thấy đối phương. Sang ngày thứ năm, Hernandez vẫn chưa tìm thấy đường dây điện thoại của đối phương để đặt máy nghe trộm. Bộ chỉ huy SOG quyết định đưa toán biệt kích về. Chiếc trực thăng Jolly Green CH53 từ Thái Lan sang bốc toán Florida tại bốn bãi đáp, riêng anh chàng Hernandez, trực thăng phải thả dụng cụ xuyên rừng (giống như đầu mũi tên) xuống câu lên, vì rừng quá rậm rạp.

Tháng 4/1971, nhà báo Jack Anderson đã viết một bài về đơn vị SOG, đăng trên tờ Washington Post. Để giữ bí mật, các chuyến xâm nhập Lào trong cuộc hành quân Prairie Fire được đổi tên là Phù Dung. Đầu năm 1971, SOG thành lập thêm toán HALO thứ hai, toán này do Đại úy Larry Manes làm trưởng toán và đã thực hiện hai chuyến xâm nhập trong lãnh thổ Việt Nam. Thăng tiến từ hàng ngũ hạ sĩ quan lên đến chức đại đội trưởng thám báo của Sở chỉ huy bắc (CCN), Larry Manes chọn ba thành viên của toán là Noel Gast, Trung sĩ Robert Castillo và John Spider Trantanella. Toán thám báo này 100% là biệt kích Mỹ.

Ngày 7/5/1971, toán HLO nhảy dù cánh dơi xuống khu vực nằm giữa thung lũng A Sầu và Khe Sanh. Quân đội Bắc Việt đang làm thêm đường mới, nối đường 921 từ Lào (tây Trường Sơn) với đông Trường Sơn ở Nam Việt Nam. Toán biệt kích HALO trong lúc đáp xuống thì bất ngờ một quả mìn muỗi trong ba lô của Gast do áp suất thay đổi nên phát nổ, khiến anh ta bị thương nặng ở lưng khi đáp đất. Trantanella cũng bị thương gãy chân. Sáng hôm sau trực thăng phải đến để đưa hai thương binh về. Năm hôm sau, hai người còn lại phải rút nốt.


Gio Linh, 2/4/1967

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P28




SOG lập thêm toán HALO thứ ba gồm: Trung sĩ nhất Billy Waugh làm toán trưởng, cùng các thành viên là Trung sĩ James J.D. Bath, Trung sĩ Jesse Campbell và Madison Strohlein. Trong số các thành viên của toán, người có nhiều kinh nghiệm nhất là Bath, từng làm toán phó cho Sisler, người đã được thưởng Huy chương Danh dự, và đây là phi vụ thứ hai của anh ta tại Việt Nam. Cũng như hai toán HALO trước, họ được huấn luyện tại căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) và trại Long Thành (Biên Hòa).


Sư 1 Anh Cả Đỏ trong chiến dịch Junction City, 4/1967

Toán HALO thứ ba có nhiệm vụ xâm nhập khu vực cách Đà Nẵng 60 dặm về hướng tây nam (trên đất Lào). Đó là vị trí mà hai toán biệt kích của Sở chỉ huy Bắc (CCN) trước đây đã từng xâm nhập. Nhưng một toán chỉ mới đáp đất khoảng 45 phút, đã phải rút quân. Toán thứ hai chạm trán với đối phương ngay tại khu vực bãi đáp, phải hủy bỏ chuyến xâm nhập. Lần này không ảnh cho thấy binh trạm của Quân Bắc Việt có nhiều bếp và đối phương quân trồng trọt nhiều hoa màu.

Sau hai lần hoãn lại vì lý do thời tiết xấu, ngày 22/6/1971, toán HALO quyết định xâm nhập cho kỳ được binh trạm này của Quân Bắc Việt. Khi trực thăng chở toán HALO đến vị trí mục tiêu, Bath nhảy trước, bật đèn xanh nhỏ để các biệt kích khác theo sau. Vào thời điểm đó, trời đang đổ mưa, những biệt kích quân bị lạc mỗi người một nơi. Waugh trông thấy đoàn xe quân sự của đối phương mở đèn gầm di chuyển, cách vị trí của toán khoảng 5 dặm về hướng bắc. Bath không nhìn thấy mặt đất, nên rơi trúng một cành cây lớn, khiến anh ta bị thương ở lưng và chân, vừa chảy máu miệng, nằm bất tỉnh.

Strohlein cũng rơi vào cây, bị gẫy tay phải, treo lủng lẳng trên cây, không xuống đất được. Riêng Bath di chuyển không được, đành chuẩn bị vị trí phòng thủ, đặt mìn claymore, lấy các băng đạn ra để sẵn. Trên tần số cấp cứu, qua các cuộc đối thoại giữa Covey (FAC-Máy bay trinh sát bao vùng), anh ta biết được, Campbell đang bị đối phương săn đuổi. Toán biệt kích cấp cứu Bright Light định xuống bốc Bath trước, nhưng anh ta trả lời hãy lo cho Strohlein trước vì anh ta bị thương nặng hơn.

Do bị vướng ở trên cây, rừng quá rậm rạp, trời lại nhiều mây nên trực thăng khó xác định chính xác vị trí của Strohlein. Hết cách, Strohlein đành thả trái khói màu để đánh dấu vị trí, nhưng trực thăng cũng không thấy tín hiệu. Ngược lại, Quân Bắc Việt ở dưới đất trông thấy trái khói màu, phát hiện được vị trí của toán biệt kích, nên đến bao vây. Strohlein báo cho trực thăng biết rằng đã trông thấy đối phương.

Trời mỗi lúc một nhiều mây. Phải khó khăn lắm trực thăng mới bốc được Campbell và Waugh đem về. Đến chiều, sau khi lấy thêm xăng, trực thăng chở toán Bright Light quay trở lại cứu Bath. Hai biệt kích quân Mũ Nồi Xanh phải nhảy xuống buộc Bath vào cáng cho trực thăng kéo lên, trong khi đó tại dãy núi nơi Strohlein bị kẹt mây vẫn bao phủ.



Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy trong quân y viện ở Đà Nẵng, người đầu tiên Bath nhận ra là Billy Waugh. Anh ta hỏi Bath: “Strohlein nằm ở đâu?”. Trưởng toán biệt kích HALO trả lời: “Tôi không đem Strohlein về được, tụi nó...”.

Ngày hôm sau, SOG đưa một trung đội tiếp ứng Hatchet Force đi tìm Strohlein, chỉ thấy cành cây nơi anh ta bị vướng đã bị đạn AK bắn gẫy. Tấm bản đồ của Strohlein rơi trên mặt đất. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tin tức gì về Strohlein.

Tình hình ngày càng trở nên nguy hiểm hơn cho các toán biệt kích của SOG. Tổn thất ngày một cao. Cả ba lần đổ quân cấp trung đội Hatchet Force đều thua thảm ngay tại bãi đáp. Trong cuộc hành quân Crimson Tide, cả trung đội ứng cứu đều bị tiêu diệt. Năm 1967, mục tiêu Oscar Eight tấn công là binh trạm xây dựng và quản lý tuyến đường mòn Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn. Kết quả Charles Wilklow bị bắt sống. Năm 1969, SOG tập kích vào căn cứ Trung ương cục miền Nam (R), thì Jerry “Mad dog” Shriver bị mất tích.



Toán HALO thứ tư do Đại úy Jim Storter làm trưởng toán, cùng các thành viên là Trung sĩ nhất Newman Ruff, Trung sĩ Miller Moye và Trung sĩ Jim Bentley, được giao nhiệm vụ xâm nhập khu vực thung lũng Plei Trap, ở tây bắc Pleiku. Toán này không gặp trở ngại khi đáp đất. Họ tiến hành lục soát mục tiêu bốn ngày, rồi rút quân.

Lần cuối cùng xâm nhập bằng dù HALO, do toán biệt kích trên Kontum (CCC) thực hiện. Toán trưởng là Trung sĩ nhất Dick Gross, cùng các thành viên là Trung sĩ nhất Mark Gentry, Bob Mc Nair, Trung sĩ Howard Sugar và Thượng sĩ Charles Behler. Toán này thám thính khu vực thung lũng Ia Drang, cách Pleiku 25 dặm về hướng tây nam trên lãnh thổ Campuchia.

Theo tài liệu “SOS”, by John L. Plaster, Simon & Schuster, 1997.


LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 957
XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG

Trong cuộc chiến Việt Nam, lực lượng biệt kích Mỹ đã tổ chức một đơn vị bí mật để thực hiện “du kích chiến” trong lòng các căn cứ của đối phương. Năm 1966, Đại tá Kelly, chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ được lệnh của Tướng Westmoreland, thành lập một đơn vị xung kích lưu động. Đơn vị này do Đại úy Yedinak thành lập vào tháng 10/1966, gọi là toán A303 biệt kích Mỹ, sau đó đổi tên thành đơn vị Đặc nhiệm 957, do Đại úy James G. “Bo” Gritz chỉ huy đơn vị.

Ngoài toán A303 biệt kích Mỹ, lính trong đơn vị 957 được thuyển mộ gồm người Việt gốc Khmer trong khu vực Bù Đốp, có khoảng 250 người. Đơn vị này được huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ, về du kích chiến để hoạt động chống lại Quân đội Bắc Việt. Toán quân này sẽ xâm nhập vào những vùng đối phương thiết lập căn cứ, sử dụng chiến thuật du kích chiến để phá hoại hậu phương của đối phương.


Trong thời gian hoạt động tại vùng đối phương kiểm soát, họ không được yểm trợ hỏa lực, tải thương, tiếp tế như những đơn vị bộ binh khác đang hành quân trên chiến trường.

Sau khi tuyển mộ xong nhóm biệt kích người Việt gốc Khmer, đơn vị Đặc nhiệm 957 di chuyển đến trại Hồ Ngọc Tảo để theo một chương trình huấn luyện khoảng 6 tuần lễ. Trại Hồ Ngọc Tảo cũng là nơi xuất phát cho những cuộc hành quân bí mật trong chương trình Sigma. Mỗi toán biệt kích Sigma gồm 4 người, được trực thăng bay sát ngọn cây, thả xuống khu vực có sự hiện diện của đối phương. Khi đáp xuống bãi đáp A, họ phải di chuyển thật nhanh đến bãi đáp B để trực thăng bốc về. Trường hợp suôn sẻ, mọi chuyện xảy ra như dự kiến, toán Sigma sẽ làm đối cho phương xuất đầu lộ diện đuổi theo, và các toán biệt kích sẽ gọi máy bay phản lực, cùng pháo binh đến thanh toán chiến trường. Trong thời gian đơn vị 957 đang tập huấn tại trại Hồ Ngọc Tảo, một toán Sigma đã gặp trắc trở. Ngay trên đường di chuyển đến điểm hẹn đã có hai biệt kích quân bỏ mạng do chính bom đạn của mình.

Đầu tháng 12/1966, lực lượng đặc nhiệm 957 tập huấn xong và di chuyển đến trại biệt kích Đức Phong (A343), cách Sài Gòn khoảng 45 dặm về hướng tây bắc. Trại này được chọn làm căn cứ xuất phát vì nằm gần chiến khu D của đối phương. Trước khi ra xuất phát, họ được cung cấp thực phẩm hco 30 ngày, gồm nhiều thùng đồ ăn lạnh: thịt bò, khoai tây, thịt heo, trứng và rau cải. Ngoài ra, họ còn “chôm” được kiện hàng nước ngọt trong một nhà kho ở cảng Sài Gòn.

Đơn vị xung kích cơ động không đóng lâu trong căn cứ Đức Phong. Sáng hôm sau, họ di chuyển lên hướng đông bắc của trại và bắt đầu những cuộc chạm súng nhỏ lẻ với đối phương. Rút kinh nghiệm, biệt kích thường hoạt động về ban đêm để tránh đụng độ với đối phương. Ho di chuyển luôn, không vào giờ giấc và lộ trình nhất định. Trên đường di chuyển, họ luôn gài mìn để đề phòng đối phương đuổi theo. Đến ngày thứ ba hoặc thứ tư, đơn vị đặc nhiệm sẽ được tái tiếp tế bằng máy bay vận tải C123, do những phi công thuộc Đoàn không quân cảm tử (Air Commando) lái. Đơn vị không quân này phối hợp rất đắc lực với lực lượng biệt kích Mỹ. Sau khi các biệt kích quân đã kiểm soát bãi thả dù tiếp tế, các phi công lái C123 sẽ hạ độ cao xuống gần sát đầu ngọn cây, định hướng lại bãi thả dù, rồi bay trên mục tiêu, thả dù kiện hàng xuống, xong sẽ ngóc đầu lên, bay về căn cứ tại sân bay.


Đại tá Mc Auliffe, Tư lệnh LLĐB tại buôn Ea Yang, Daklak, 1966

Trong lúc hành quân, lực lượng đặc nhiệm 957 được lệnh bất ngờ quay về trại biệt kích Đức Phong. Các sĩ quan biệt kích Mỹ lên trực thăng, bay đến trại biệt kích Sông Bé (B34) để nhận lệnh hành quân mới. Tại căn cứ B34, đã có một số sĩ quan cao cấp Mỹ cùng vài nhân viên mặc thường phục (CIA) đợi sẵn. Các sĩ quan trong lực lượng đặc nhiệm 957 được thông báo: Ngày 8/10/1966, một chiếc máy bay thám thính tối mật Ù2 thuộc Đoàn không quan chiến lược Vùng 20 đã bị rơi trên địa bàn tỉnh Phước Long, cách Sông Bé khoảng 4 dặm về hướng đông nam. Chiếc U2 đem theo hộp đen, một dụng cụ điện tử, nếu bị mất có thể ảnh hưởng đến nền an ninh quốc gia. Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ, do Đại tá Kelly chỉ huy, được lệnh tổ chức gấp một đơn vị đặc nhiệm đi tìm chiếc U2 lâm nạn để thu hồi chiếc hộp đen.


Do tính chất nghiêm trọng của sự việc, đơn vị xung kích cơ động được điều động lên khu vực Sông Bé để tìm chiếc hộp đen. Viên Đại tá Charles D. Rafferty (sau này chỉ huy Đoàn không quân chiến lược Vùng 20) không nói gì thêm (đụng tới máy bay tối mật U2, nên không ai nói rõ ràng cả). Phải 30 năm sau, đến thời hạn giải mã, sự thật mới phơi bày.

Lực lượng đặc nhiệm 957 được xe chở đến chân núi Bà Rá, thuộc địa bàn tỉnh Phước Long, và từ đó xuất phát cuộc tìm kiếm. Có điều là không biết chiếc hộp đen còn nằm trong chiếc máy bay U2 hay đã rơi ra ngoài?

Nhưng trước tiên là phải tìm ra chiếc máy bay lâm nạn. Đến khu vực tìm kiếm, đã có những vụ chạm súng lẻ tẻ. Đối phương cũng tung quân đi tìm chiếc U2. Đến trưa ngày thứ 3, lực lược đặc nhiệm tìm thấy xác chiếc máy bay, thân máy bay tả tơi, vương vãi khắp nơi. Các biệt kích quân tìm kiếm chiếc hộp đen trong vòng bán kính 100 thước, nhưng không thấy. Lệnh ban ra phải tìm cho bằng được, nên đêm đó Đại úy Gritz bàn với Ban Tham mưu là phải rải quân rộng ra để tìm.


Khoảng trưa ngày hôm sau, toán quân do Đại úy Yedinak chỉ huy đang trên đường xuống một sườn đồi, nơi có một dòng suối, họ tìm thấy chiếc hộp đen rơi ngập xuống một vũng bùn. Các trung đội của lực lượng đặc nhiệm 957 được thông báo phải bảo vệ an toàn tuyệt đối cho trực thăng vào đem chiếc hộp đen về. Cuộc tìm kiếm chấm dứt, đơn vị xung kích cơ động quay về trại Đức Phong, chuẩn bị cho một cuộc hành quân mới.

Đó là cuộc hành quân Blackjack 31, bắt đầu vào sáng sớm ngày 8/1/1967, trung đội thám báo do Chilton chỉ huy, lặng lẽ lẻn ra khỏi trại biệt kích Đức Phong, di chuyển 11 km về hướng nam, vào trung tâm chiến khu D. Trung đội này được lệnh tắt vô tuyến điện, chỉ báo cáo mỗi ngày 2 lần trên hệ thống máy truyền tin PRC25. Sáu giờ sáng hôm sau, Đại úy Yedinak, Trung sĩ England dẫn một trung đội theo hướng khác xâm nhập. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với trung đội thám báo đã “vào vùng” từ ngày hôm trước. Sau đó cả hai nằm đợi bộ phận còn lại của đơn vị sẽ cùng Đại úy Gritz vào.

Chiến khu D có thể được coi là mật khu bất khả xâm phạm của đối phương. Lực lượng đặc nhiệm 957 được tin tình báo cho biết có thể chạm trán với đơn vị chính quy cấp trung đoàn của đối phương. Các biệt kích quân nhận ra điều đó ngay từ ngày đầu tiên xâm nhập, không phải chỉ có quân Mỹ. Thỉnh thoảng rộ lên tiếng súng bắn thăm dò, nhận diện, đánh dấu vị trí của đối phương. Những ngày sau, y tá trong đơn vị cho biết đã có người, kể cả lính Mỹ bị sốt rét, họ lên cơn sốt bất tử, bị lạnh nổi da gà. Theo kế hoạch, đơn vị xung kích cơ động sẽ hoạt động trong vùng khoảng 30 ngày, nhưng tình trạng sốt rét đã trở nên trầm trọng, làm giảm hiệu năng chiến đấu. Ngày 10/1/1967, toán thám báo chạm trán với đối phương, khiến 1 biệt kích Khmer bị thương, sau đó chết. Đối phương bị diệt 1, bị bắt 1. Quân chủ lực Bắc Việt mặc quân phục ka ki xanh, trang bị đầy đủ. Người tù binh cho biêt họ thuộc một binh trạm gần đó. Binh trạm này do những đơn vị chính quy tạm dừng chân trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh.


Tại chiến khu D, lực lượng đặc nhiệm 957 phân tán thành từng tiểu đội, sử dụng chiến thuật du kích để tổ chức các hoạt động phá hoại, phục kích, gây cho đối phương tình trạng bất ổn. Cuộc hành quân chấm dứt ngày 9/2/1967, những biệt kích quân được đưa về Biên Hòa lãnh lương, đi phép. Còn những biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ được tướng Westmoreland ban thưởng huy chương. Đây là lần đầu tiên lực lượng biệt kích sử dụng chiến thuật du kích của đối phương để đánh lại đối phương
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P29


Đầu năm 1967, nhiều dấu hiệu cho thấy hai trung đoàn chủ lực Quân Giải phóng là Trung đoàn 271 và Trung đoàn 273 xuất hiện tại tỉnh Phước Long. Ngành tình báo cũng tin rằng hai trung đoàn chính quy Bắc Việt là Trung đoàn 84 và Trung đoàn 141 đang hoạt động trong chiến khu D.


Ngoài các đơn vị chính quy Bắc Việt, Quân Giải phóng, còn có thêm Đoàn Hậu cần 81 của đối phương. Vì vậy, SOG được lệnh tổ chức tiếp cuộc hành quân Blackjack 33, do lực lượng xung kích cơ động phối hợp với chương trình Sigma đảm nhiệm, kéo dài từ 24/4 cho đến 24/5/1967, tại vùng chiến thuật III. Khu vực hành quân vẫn là chiến khu D, an toàn khu của Quân Giải phóng. Lực lượng xung kích cơ động do Đại úy James G. Gritz chỉ huy. Tổng chỉ huy cuộc hành quân Blackjack là Trung tá Clarence T. Hewgley.

Nhiệm vụ của lực lượng đặc nhiệm 957 trong cuộc hành quân này là làm mồi nhử cho các trung đoàn chính quy của đối phương xuất hiện, sau đó Sư đoàn bộ vbinh số 1 “Anh cả đỏ” của Mỹ sẽ chặn đánh, tiêu diệt các đơn vị chủ lực của Bắc Việt và Quân Giải phóng. Đại tá Francis Blackjack Kelly, chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ được Thiếu tướng John Hay, Tư lệnh Sư đoàn “Anh cả đỏ” bảo đảm sẽ đưa quân vào tiếp viện ngay tức khắc, trong trường hợp lực lượng xung kích cơ động chạm trán với một đơn vị cấp lớn của đối phương.

Đầu tháng 5/1967, tại chiến khu D đã diễn ra cuộc chạm trán nảy lửa giữa biệt kích quân với một đơn vị chủ lực của Quân Giải phóng. Sư đoàn “Anh cả đỏ” đã không vào tiếp cứu kịp như lời bảo đảm của Tướng Hay, khiến cho lực lượng đặc nhiệm 957 bị thiệt hại nặng. Ngày 4/5/1967, lực lượng xung kích cơ động được lệnh đưa về trại biệt kích Trảng Sụp, Tây Ninh bằng trực thăng Chinook CH47 để bổ sung quân số. Y tá James C. Donahue ngồi một mình trên chiếc C123 bay về Tây ninh, xung quanh anh ta là những xác biệt kích Khmer nằm la liệt trên sàn. Khi chiếc máy bay đáp xuống tại Trảng Sụp, máu chảy ra từ những thân thể bất động tràn về phía trước khoang máy bay.


Sau tổn thất thê thảm trên, hai toán biệt kích Mỹ A303 và A304 nhập lại, vẫn do Đại úy Gritz chỉ huy, Đại úy Tom Johnson làm phụ tá. Sau 5 ngày nghỉ để lấy lại tinh thần, ngày 9/5/1967, lực lượng đặc nhiệm 937 được trực thăng chở đến trại biệt kích Đồng Xoài, Phước Long để chờ đến tối xâm nhập trở lại chiến khu D. Đại úy Bo Gritz được Phòng Nhì của sư đoàn 1 “Anh cả đỏ” cho biết là trận đụng độ trước đây trong ngày 3/5, lực lượng đặc nhiệm 957 bị Trung đoàn chủ lực 271 Quân Giải phóng tấn công. Do đó họ vẫn phải làm nhiệm vụ của mình cho đến khi cuộc hành quân Blackjack chấm dứt. Có lẽ phải rất nhiều năm sau, hơn ai hết, những cựu biệt kích quân Sài Gòn mới thấy hết được sự thâm hiểm trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt” của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Theo tài liệu:
- Hard to Forget, by Steven M. Yedinak
- Blackjack 33, by James C.
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giao sư Vủ Đình Hiêu - 30



MẬT HIỆU BRIGHT LIGHT

Thiếu tá Dean Wood cố gắng lái chiếc khu trục A1 Skyraider trúng đạn phòng không, bay ra biển Đông, nơi có Hạm đội 7 của Mỹ chờ sẵn. Chiếc máy bay đã hỏng nặng, chỉ còn biết trông cậy vào khả năng của viên sĩ quan Hải quân, ông ta kéo chiếc cần màu vàng giữa hai đùi và chiếc ghế ngồi trong buồng lái, bắn ra ngoài không trung. Cách xa mấy dặm, binh sĩ Bắc Việt nhìn chiếc máy bay đâm xuống đất, nổ tung và một chiếc dù dạt vào dãy núi ở hướng tây.




Bờ Nam

Ngoài biển Đông, Đô đốc Leroy Johnson không thể ngồi yên khi được biết một sĩ quan hải quân Mỹ đang trong tình thế nguy hiểm. Ông ta gọi điện thoại cho Tướng Westmoreland ở Sài Gòn, yêu cầu gửi một đơn vị nhỏ ra ngoài Bắc tìm kiếm người phi công lâm nạn. Tướng Westmoreland ra lệnh cho chỉ huy trưởng SOG, Đại tá Singlaub thi hành công tác.

Vào nửa đêm ngày 12/10/1966, máy bay C2 của hải quân đem theo toán thám báo Iowa hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm Intrepid, chuẩn bị thực hiện kế hoạch giải cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Chương trình giải cứu tù binh Mỹ có mật hiệu là Bright Light. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Mỹ chỉ định Đại tá Aderholt là trưởng phòng OPS 80 của SOG, có nhiệm vụ tìm kiếm dấu vết tù binh Mỹ, trại giam tù binh, giải cứu... kể cả dùng tiền bạc để có thể lấy lại tù binh. Phòng OPS 80 trực thuộc SOG, đây là đơn vị duy nhất có khả năng và được phép hoạt động bí mật tại khu vực Đông Nam Á.



Ngày 30/8/1966, một chiêu hồi vốn gốc người vùng đồng bằng sông Cửu Long cho biết căn cứ của đơn vị anh ta có giam giữ một tù binh Mỹ tên là Jackson. Đó là Đại úy không quân Carl E. Jackson, bị mất tích khi chiếc máy bay vận tải cơ C123 của ông ta bị rơi ở hướng tây nam Sài Gòn ngày 27/6/1965. Sau khi không ảnh và máy dò sự thật cho biết về vị trí trại tù binh, SOG chuẩn bị cho một cuộc tấn công biệt kích để giải cứu viên phi công Jackson.


Bến Tre, 11/7/1967

Trong khi đó, tại Kontum, sở chỉ huy hành quân Crimson Tide chuẩn bị cho một đại đội đi giải cứ tù binh. SOG chỉ định Đại úy Frank Jaks chỉ huy phi vụ đặc biệt này. Sáng sớm ngày 18/10/1965, Đại đội biệt kích Nùng cùng với người hồi chánh chờ tại sân bay Kontum. Nhưng chiếc máy bay C130 chở họ đến chậm, do đó khi đến tỉnh Sóc Trăng, nơi có căn cứ tiền phương của cuộc tấn công, họ đã chậm mất bốn giờ đồng hồ. Họ cũng chưa được cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình đối phương, nhưng họ đã phải cấp tốc lên đường.



Khi Đại úy Jacks và hai trung đội xuống bãi đáp trực thăng, cách đó chừng 500 thước, đối phương đã nổ súng vào đội hình hai trung đội biệt kích. Tại bãi thả trung đội thứ ba, tiếng súng cũng nổ đinh tai. Chiếc trực thăng chở trung đội trưởng Huckleberry Lewis và tiểu đội trưởng Nùng bị trúng đạn rơi xuống. Chiếc máy bay phản lực F100 yểm trợ không hiệu quả, đến khi chiếc A1 Skyraider đến thì đã quá muộn để giải cứu Trung đội 3. Đại úy Jaks cùng hai trung đội còn lại cầm cự suốt đêm. Đên sáng đối phương mới rút. Biệt kích quân tìm thấy Huckleberry cùng nhiều quân nhân Nùng nằm chết ngay bãi đáp. Hình như Charlie Vessels đã tập hợp những biệt kích quân sống sót lui vào một nghĩa địa nhỏ gần đó để chống cự. Vessels cũng chết cùng với một toán lính Nùng khác. Cả trung đội 3 đều bị thương vong.

Có lẽ gia đình, bạn bè của Đại úy Jackson cho đến nay vẫn chưa từng biết chuyện những biệt kích quân đã hy sinh trong trận đánh nhằm giải cứu anh ta. Bởi đến nay, anh ta vẫn còn mất tích.

Một tuần sau, máy bay trinh sát của SOG bay trên không phận Lào đã chứng kiến một chiếc F105 bị trúng đạn phòng không và rơi. Viên phi công nhảy dù xuống vùng rừng núi trên đất Lào. Thiếu tá Frank Sova gọi điện cho căn cứ hành quân tiền phương của SOG ở Dakto: “Tôi thấy chiếc dù đang bay về hướng đó. Anh ta tháo dù và trốn vào rừng. Bạn có thể làm cách nào đi cứu anh ta không?”.



Đại úy Jaks, chỉ huy trưởng căn cứ tiền phương Dakto đánh dấu trên bản đồ vị trí viên phi công lâm nạn, cách đó 70 dặm, xa hơn khu vực đường mòn Hồ Chí Minh, ở đó đầy rẫy quân Bắc Việt. Tệ hơn nữa, nơi đó nằm ngoài tầm hoạt động của loại trực thăng Huey. Jaks yêu cầu phi công trực thăng tìm cách tăng tầm hoạt động. Họ quyết định bơm một thùng phuy 55 gallon nhiên liệu rồi chất lên máy bay. Trên đường về họ sẽ đáp xuống nơi nào đó bên Lào, đổ thêm nhiên liệu bay về. Đây cũng là một câu chuyện rất liều mạng.

Đến chiều, toán biêt kích ứng cứu của SOG ra đi. Họ trông thấy pháo hiệu cấp cứu do viên phi công bắn lên cho biết vị trí của anh ta. Ngồi trên máy bay ứng cứu, toán biệt kích cũng nhìn thấy quân Bắc Việt đang trên đường đến mục tiêu. Khi viên phi công được câu lên, anh ta mừng khôn xiết: “Chúa ơi! Tôi đâu biết phe ta có máy bay của Lục quân ở gần đây!”. Sau đó viên phi công được SOG dặn phải quên đi những gì mình trông thấy. Chiếc máy bay phải đáp xuống một cánh đồng bên Lào, mấy tay biệt kích đẩy thùng phuy nhiên liệu ra, hì hục bơm bằng tay một cách vội vã và trở về Dakto.


Chỉ có một số rất ít phi công của không quân, hải quân biết có sự hiện diện của những toán thám báo SOG xâm nhập Lào, Bắc Việt Nam để cứu họ. Nhằm bảo đảm an toàn cho những toán thám báo của SOG và dễ thành công trong những sứ mạng của họ, chuyện này phải được giữ kín trong suốt cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiêu - 31


ĐẶC NHIỆM BAT 21


Một trong những nỗ lực lớn của Phòng Tìm kiếm quân nhân mất tích (JPRC) thực hiện trong tháng 4/1972, là phi vụ có mât danh “Bat 21”, nhằm cứu Trung tá không quân Iceal Hambleton bị bắn rơi gần Đông Hà, Quảng Trị trong chiến dịch Mùa hè đỏ lửa.


Khe Sanh

Trung tá Hambleton là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm của Không lực Mỹ. Ông ta 53 tuổi, phục vụ trong quân đội 30 năm và sắp mãn hạn phục vụ tại Việt Nam. Những nỗ lực trong việc ứng cứu Hambleton là một trong những điều khó khăn và chịu tổn thất nhiều nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Câu chuyện này đã trở nên một giai thoại, được quay thành phim do diễn viên nổi tiếng Gene Hackman đóng vai Trung ta Hambleton và Danny Glover đóng vai người phi công trong phim “Điều không tiền phương” (Forward Air Control - FAC). Trong chuyến giải cứu này, một câu hỏi quan trọng được đặt ra: “Không lực Hoa Kỳ đã rất tốn kém về bom đạn, máy bay, vũ khí cùng nhân lực để cứu một phi công lâm nạn, điều đó có đáng thực hiện không?”.

Trận tấn công quy mô của Quân Bắc Việt được người Mỹ gọi là “Trận Tổng tấn công trong Lễ Phục Sinh”. Quân đội Sài Gòn gọi là trận “Mùa Hè đỏ lửa”. Quân đội Bắc Việt Nam gọi là “Chiến dịch Xuân Hè 1972”. Trong chiến dịch này, Quân đội Bắc Việt không sử dụng đơn vị nhỏ, mà sử dụng cấp quân đoàn với nhiều sư đoàn tham chiến, được các đơn vị thiết giáp, pháo binh, phòng không yểm trợ mạnh mẽ cho các trận tấn công. Mục tiêu của trận tấn công này là Quảng Trị, tỉnh cực bắc của miền Nam Việt Nam, nằm sát khu phi quân sự; bên kia đất Lào là những căn cứ dưỡng quân, tiếp vận của Quân đội Bắc Việt.

Mặc dù bị tấn công bất ngờ, nhiều đơn vị quân đội Sài Gòn đã anh dũng chống cự lại, nhưng vẫn phải rút quân. Riêng Sư đoàn bộ binh 3, một đơn vị mới thành lập, bị bao vây không lối thoát.


Lữ Đoàn Nhảy Dù 173 tại Đồi 875, Dakto

Quân Bắc Việt đã dày công chuẩn bị cho trận tấn công. Lợi dụng thời tiết xấu, hạn chế sự yểm trợ của không quân Việt – Mỹ. Để chia lửa cho Sư đoàn bộ binh 3, ngày 2/4/1972, các pháo đài bay B52 được lệnh thả bom trên các trục đường tiến quân của Quân đội Bắc Việt. Không lực Hoa Kỳ biết rằng trong đội hình hành quân, đối phương có đem theo tên lửa đất đối không SAM, do đó trong kế hoạch không tập được tăng cường thêm hai máy bay EB66, để làm rối loạn hệ thống radar của các dàn tên lửa SAM. Tên gọi hai chiếc máy bay EB66 là BAT 21 và BAT 22.

Mặc dù Không lực Hoa Kỳ đã đề phòng, nhưng các dàn tên lửa SAM của Bắc Việt vẫn phát hiện được những máy bay Mỹ. Đối phương phóng lên ba quả tên lửa. Hai quả đầu hụt. Quả thứ ba trúng chiếc máy bay BAT 21. Phi hành đoàn loại máy bay này có sáu người, nhưng chỉ mỗi mình Trung tá Hambleton bung được dù xuống đất an toàn. Một phi cơ “Điều không tiền phương” theo dõi chiếc dù của Hableton, thấy rơi xuống vùng đất đã bị đối phương chiếm, vội bắn tín hiệu cấp cứu.


Kontum, 2/1966

Điều may mắn là trên không phận đang có máy bay ứng cứu cho một phi công bị bắn rơi trước đó nhận được tín hiệu cấp cứu. Khi hai chiếc khu trục A1 Skyraider bay vào vùng mặt trận, các dàn súng cao xạ của đối phương bắn lên như đạn lưới. Sau khi những chiếc khu trục đã làm chủ tình hình, trực thăng cấp cứu mới bay vào. Bất ngờ súng phòng không của đối phương lại bắn lên dữ dội, hạ luôn chiếc trực thăng ứng cứu. Một người duy nhất trên trực thăng sống sót, bị đối phương bắt sống, áp tải sang bên kia khu phi quân sự. Còn ba thành viên phi hành đoàn khác chết. Lúc đó đã xế chiều, các phi vụ ứng cứu tạm ngưng, chỉ có những chiếc phi tuần đến oanh kích xung quanh khu vực Trung tá Hableton đang ẩn nấp. Nguy hiểm hơn nữa, vị trí của ông ta rơi cách tuyến phòng thủ của Quân đội Sài Gòn 4 km, ngay trên hướng tiến quân chính của Quân đội Bắc Việt.


Sáng hôm sau, ngày 3/4 các phi vụ ứng cứu đều phải đối mặt với hỏa lực phòng không đối phương bắn lên dữ dội. Hai chiếc trực thăng CH53 Jolly Green bị trúng đạn, nhưng lết về được đến sân bay Phú Bài ở Huế. Chiều hôm đó, một chiếc máy bay quan sát OV10 do Đại úy William Henderson và Trung úy Mark Clark bị trúng tên lửa vác vai A72. Cả hai phi công nhảy dù ra trước khi chiếc máy bay nổ tung trên trời. Đại úy Henderson bị bắt lúc đang lẩn trốn trong một bụi cây gần bờ sông. Clark vẫn còn chạy trốn, bị các toán quân Bắc Việt ráo riết truy lùng.


Đồng bằng sông Cửu Long, 1962

Như vậy, có tên hai phi công đang nằm trong vùng đối phương kiểm soát. Đêm đó Trung tá Hambleton báo cáo, đối phương sử dụng đèn pin đi tìm ông ta. Hai ngày tiếp theo là ngày 4 và 5/4/1972, thời tiết trở nên xấu, công việc ứng cứu hai phi công bị bắn rơi phải tạm ngưng. Sang ngày hôm sau, thời tiết trở nên tốt hơn, các phi tuần A1 được lệnh tấn công các trận địa phòng không của đối phương. Mọi nỗ lực đều dồn vào việc giải cứu các phi công lâm nạn. Những cố vấn Mỹ trong các đơn vị Quân đội Sài Gòn yêu cầu yểm trợ, nhưng Không quân Mỹ làm ngơ.

Mặc dù Mỹ tiêu thụ không biết bao nhiêu tấn bom, cũng không ngăn được Quân đội Bắc Việt tấn công mạnh mẽ. Sau những trận oanh kích, chiếc FAC ra hiệu cho trực thăng Jolly Green bay vào cứu Hambleton. Viên phi công trực thăng rất can đảm, bị trúng đạn vẫn cố gắng bay đến chỗ Hambleton đang lẩn trốn. Nhưng máy bay bị hư hại nặng, đành phải bay ra, liền bị lưới lửa phòng không đối phương bắn rơi cách vị trí của Hamleton khoảng 3 km. Chiếc trực thăng bốc cháy liên tục trong mấy ngày sau đó. Tất cả phi hành đoàn gồm 6 người đều bỏ mạng để cứu 1 phi công.


Tin tức về chuyện cứu phi công tới tai Đại tướng Abrams, khi đó đang ở Sài Gòn, ông ta liền ra lệnh tìm cách khác. Ngày 7/4, thêm một chiếc OV10 bị bắn rơi và thêm một phi công rơi vào tay đối phương. Trung úy Phie Walkeer có gọi liên lạc, còn trung úy thủy quân lục chiến Larry Potts không thấy gọi ứng cứu.


NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiêu - 32




NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN BÍ MẬT

Khi Quân đội Mỹ cuốn cờ rời khỏi Việt Nam, tất cả những hồ sơ, tài liệu về cuộc chiến bí mật của cơ quan Trung ương tình báo Mỹ (CIA) cũng như của các đơn vị SOG (Đoàn Nghiên cứu, quan sát) đều được đưa vào tủ sắt niêm phong lại. Câu chuyện về những đơn vị SOG chìm dần vào lãng quên. Cho đến những năm 1990, khi những hồ sơ mật đã đến thời kỳ giải mã, thì những bí mật mới được phơi bày ra.


Vẫn chưa có được những số liệu chính xác về những quân nhân Mỹ phục vụ trong các đơn vị SOG bị tử trận, mất tích hoặc bị bắt làm tù binh trong những chuyến hành quân bí mật. Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Mỹ (Lầu Năm Góc) vẫn không được báo cáo một cách chính xác về những số liệu tổn thất. Người ta chỉ có thể ước đoán rằng, lực lượng SOG mất khoảng 300 quân, trong số đó có đến một phần tư bị mất tích. Trong Kế hoạch 35, cả ba Sở chỉ huy Bắc, Trung, Nam (CCN, CCC, CCS) có khoảng 110 sĩ quan, 615 lính biệt kích Mỹ. Mỗi Sở chỉ huy có 30 toán biệt kích, đảm nhiệm 95% trách nhiệm hành quân do thám, phá hoại hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi toán biệt kích có ba quân nhân Mỹ, tổng cộng có 270 hạ sĩ quan biệt kích Mỹ trong những năm từ 1966-1971.

Giữa tháng 2 và tháng 4/1973, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trả tự do cho 591 tù binh Mỹ bị giam giữ trong các trại giam ở miền Bắc, nhưng không một ai thuộc các đơn vị SOG.

Theo tài liệu của SOG, thì có khoảng 20 biệt kích quân Mỹ bị bắt. Thế họ biến đi đâu? Có chuyện gì đã xảy ra với họ? Chưa ai trả lời.


"Người hùng" Nguyễn Văn Kiệt và Trung úy Tom Norris sống sót trở về sau Phi vụ "BAT 21"

Cuối cùng là những người sống sót trở về từ những trại cải tạo lao động ở miền Bắc. Họ là những biệt kích quân, điệp viên được cơ quan CIA, SOG phái ra hoạt động phá hoại trên lãnh thổ Bắc Việt Nam. Năm 1968, ước chừng có khoảng 500 biệt kích quân Việt Nam xâm nhập miền Bắc đã bỏ mạng trong các trận chiến đấu với đối phương. Chỉ có một nhóm nhỏ bị giam giữ trong các trại giam, hoặc bắt buộc phải hợp tác với lực lượng an ninh Bắc Việt trong việc gửi báo cáo sai lạc về cho chương trình “Kế hoạch 34”. Những biệt kích của Quân đội Sài Gòn coi như bị mất tích trong lòng đối phương. Khi ký Hiệp định Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam vào tháng 1/1973, không một nhà ngoại giao Mỹ nào nhắc đến lực lượng biệt kích của Quân đội Sài Gòn.


Căn cứ Speer, nằm sâu 6 dặm trong đất Campuchia, 24/6/1970. Một người lính Sư 1 Kỵ binh bay chờ được trực thăng bốc về VN

Lạ lùng thay! Nhiều biệt kích quân vẫn còn sống, sau nhiều năm trong các trại cải tạo lao động ở miền Bắc. Đến những năm cuối của thập niên 70, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần lượt trả tự do cho những biệt kích quân. Có người bị bắt từ những năm 1961-1962. Những năm cuối của thập niên 80, hầu hết biệt kích quân đã được trả tự do, họ trở về với gia đình của mình ở miền Nam. Trong những năm 90, có 150 biệt kích quân Sài Gòn còn sống sót, được phép rời Việt Nam, sang định cư ở Mỹ, làm lại cuộc sống mới.


Đức Phong, 1966. Sean Flynn, phóng viên chiến trường 24 tuổi, người đã ghi lại nhiều hình ảnh về LLĐB Mỹ tại VN

Nhưng buồn thay! Chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục quên đi những cựu biệt kích Sài Gòn, từng được CIA tuyển mộ cho những sứ mạng nguy hiểm trong lòng đối phương. Chính phủ Mỹ cứ làm ngơ, lờ đi khi họ đặt chân lên đất nước đã sử dụng họ trong những chuyến xâm nhập định mệnh trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam.

Năm 1995, các cựu biệt kích quân trong cuộc chiến bí mật đã đưa đơn kiện Chính phủ Mỹ trước Tòa án Liên bang ở Washington, đòi bồi thường, trả lương cho họ trong những năm tháng bị giam cầm tại miền Bắc Việt Nam, theo đúng bản hợp đồng khi họ được tuyển mộ. Chính quyền Liên bang bác lại đơn kiện. Trong lúc vụ kiện tụng đang tiếp diễn, thì năm 1966, Tổng thống Clinton đã ký một điều khoản cung cấp 20 triệu USD bồi thường cho những cựu biệt kích quân Sài Gòn. Mỗi người được khoảng 40.000 USD. Tuy nhiên, những cựu biệt kích quân Sài Gòn vẫn không được hưởng những quyền lợi về chăm sóc sức khỏe. Nhiều người đã phải trải qua những năm tháng nhọc nhằn ở trại cải tạo lao động, có người đã trở thành người tàn phế.


Tháng 6/1998, các cựu biệt kích quân Sài Gòn, một lần nữa làm đơn khiếu nại khác, đòi hỏi quyền lợi về sức khỏe như những cựu biệt kích quân Mỹ khác. Họ nhận thấy mình xứng đáng được như vậy.

Theo tài liệu: “The Secret War Against Hanoi” by Richard H. Shuktz Jr
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiêu - P33




BIỆT KÍCH QUÂN ĐÒI HỎI QUYỀN ĐỊNH CƯ TẠI MỸ

Tại Washington, họ nói rằng: Họ là những toán tuần thám của Mỹ thất lạc trong chiến tranh Việt Nam. Hơn 50 biệt kích quân của Quân đội Sài Gòn, những người đã hoạt động đằng sau phòng tuyến của đối phương cho cơ quan Trung ương Tình báo CIA và Quân đội Mỹ.


Những biệt kích quân và hơn 400 đồng sự của họ bị bắt và giam cầm từ thập niên 60, được ghi nhận trong hồ sơ của chính quyền Mỹ. Họ sống sót qua những năm tháng bị giam cầm trong các trại cải tạo lao động ở Bắc Việt Nam. Bây giờ họ muốn rời Việt Nam, nơi mà họ bị xem là những kẻ phản bội tổ quốc, phản bội lại dân tộc, để đến định cư tại Mỹ, đất nước từng thuê họ làm biệt kích.

Thế nhưng, Sở Di trú và các dịch vụ Quốc tịch Mỹ chẳng tin những câu chuyện kể trên và bác đơn xin của họ. tuy nhiên, mới đây một số bản báo cáo có tuổi 25 năm của Lầu Năm Góc (Bộ Tổng Tham mưu Mỹ) đã ủng hộ mạnh mẽ cho những đòi hỏi của họ, cũng giống như sự ủng hộ của cựu trùm phân tích gia của cơ quan Tình báo Quốc phòng về tù binh chiến tranh tại Việt Nam.

Trong một điện văn gửi đi từ Bangkok, Thái Lan đến các cơ quan tình báo khắp cả nước. Đại sứ David Lambertson nói rằng: Cựu phân tích gia của cơ quan Tình báo Quốc phòng là Sedwick Tourison đã trình bày bản “tin tức đặc biệt, chi tiết”, đã chứng minh các biệt kích quân Việt Nam là “những nhân viên khế ước cho Mỹ, và trước khi bị bắt, họ được trả lương với ngân khoản của chính quyền Mỹ”.

Ông Lambertson, một cựu viên chức về ngoại giao ở Việt Nam những năm 1965-1968, nói rằng Sở Di Trú (INS) nên tái xem xét việc khước từ những đòi hỏi cho vấn đề xin tị nạn của các cựu biệt kích quân Sài Gòn. “Chúng ta tin rằng họ xứng đáng, dựa trên sự liên hệ với Mỹ về chính sách, chương trình và thời gian lâu dài trong chốn lao tù”. Bức điện văn nói như thế từ cửa miệng của vị Đại sứ, rằng các biệt kích quân bị bắt “trong khi thi hành các nhiệm vụ do Mỹ chỉ định, thu thập tin tức tình báo, thực hiện các cuộc hành quân quân sự hoặc tâm lý chiến hay tiếp cứu các phi hành đoàn Mỹ bị bắn rơi nơi miền Bắc Việt Nam”.


Biệt đội tình báo Thiên Nga của Quân đội VNCH

Trong dịp kỉ niệm năm thứ 20, ngày chính quyền Sài Gòn sụp đổ, vết thương cũ lại được mở ra đối với nhiều người Việt. Không ai đau khổ hơn câu chuyện về những biệt kích quân thất lạc. Theo lời ông Tourison, trùm phân tích gia của cơ quan Tình báo Quốc phòng, văn phòng đặc biệt về tù binh và quân nhân mất tích trong thập niên 80, vừa là tác giả chính của bản báo cáo cuối cùng cho Ủy ban Thượng viện về tù binh chiến tranh và quân nhân mất tích (POW / MIA) năm 1993, đã viết:

“Không có gì hoài nghi trong tiềm thức của tôi về những nhân viên mà họ tự nhận. Họ đã lãnh, thi hành nhiệm vụ mà chúng ta, chính quyền Mỹ đã biết số phận của họ từ giữa thập niên 1960.

Trong khi tấn thảm kịch mà chúng ta đã bỏ rơi các tù binh kể trên lại, đó là một vụ scandal của quốc gia mà chúng ta tìm cách chối bỏ sự hiện diện của họ và sửa lại lịch sử để loại bỏ họ”.


Đà Nẵng, 24/4/1975


Vũng Tàu, 9/4/1975
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiêu - P34


PHỤ LỤC
(Phụ bản 1)

KẾ HOẠCH 34A
ĐOÀN NGHIÊN CỨU QUAN SÁT (SOG)


Khái niệm khởi thủy về chương trình hoạt động bí mật đã được đem ra bàn cãi từ đầu tháng 5/1963, và Kế hoạch 34-63 là đề tài lớn trong buổi hội thảo về Việt Nam tại Honolulu ngày 20/11/1963.


5/1968

Kế hoạch này gần như tương tự với bản thảo cuối cùng đưa ra năm 1964, bản này xác định mục đích cho những hành động quấy phá, đánh lạc hướng, áp lực chính trị, bắt cóc tù binh, phá hoại, lấy tin tức, sản xuất tin tức nhằm đánh lạc hướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Kế hoạch 34A được Tổng thống Lyndon B. Johnson phê chuẩn ngày 24/1/1964, khai sinh ra Đoàn nghiên cứu quan sát trực thuộc Bộ chỉ huy Quân Viện Việt Nam (MACV/SOG). Đơn vị mới thành lập này được phủ kín bởi độ bảo mật cao. Các sĩ quan cao cấp trong Quân đội Mỹ rất thích thú. Ý kiến thành lập đơn vị SOG ngầm ám chỉ độ uyển chuyển bên ngoài trận chiến tranh quy ước trên chiến trường Việt Nam.

Theo quan điểm khởi thủy, Kế hoạch 34A được áp dụng để gây hậu quả cho Bắc Việt. Hậu quả được định nghĩa bằng sự đầu hàng hoặc nền kinh tế, chính trị suy sụp, đưa đến hòa bình trong vùng. Luật lệ hướng dẫn cho những hoạt động đặc biệt được Washington gửi đến trong tháng 3/1964.


Huế, Mậu Thân 1968

Công điện số 6 từ Bộ chỉ huy Quân Viện Mỹ cho thành lập một đơn vị bí mật với những hành quân ngoại lệ. Ban đầu, đơn vị này lấy tên là Đoàn Hành quân đặc biệt, dưới sự giám sát trực tiếp của cơ quan MACV-SOG, có ban tham mưu riêng, đặt dưới quyền chỉ huy của vị tướng tư lệnh cơ quan MACV.

Nhiệm vụ dành cho đơn vị MACV-SOG được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn 1 từ tháng 2 đến tháng 5/1964: Lấy tin tức bằng máy bay thám thính U-2, nghe trộm hệ thống truyền tin, tâm lý chiến, thả truyền đơn, quà tặng, máy thu thanh để tuyên truyền. Thêm vào đó là những hoạt động quân sự phối hợp giữa VNCH và Mỹ gồm: càn quét vùng biên giới, tấn công trả đũa, oanh kích, dùng biệt kích tấn công bất ngờ.


Chiến dịch Junction City, 1/4/1967

Giai đoạn hai và ba cũng tương tự, chỉ tăng thêm cường độ và nhắm vào miền Bắc Việt Nam. Ba giai đoạn kể trên nhằm che giấu những hành động phá hoại các mục tiêu kinh tế, kỹ thuật của miền Bắc. Điều quan trọng là mọi hoạt động đều đặt dưới quyền của cơ quan MACV, chứ không lệ thuộc chính quyền Nam Việt Nam.

Thời gian đầu, đơn vị SOG sử dụng những quân nhân Mỹ tạm thời (TDY). Tư lệnh bộ tư lệnh Thái Bình Dương thành lập đơn vị hải yểm tạm thời cho ban cố vấn hải quân Mỹ ngoài Đà Nẵng như sau:

A. Toán sửa chữa và bảo trì.
1. Tăng thêm lần thứ nhất. Hai sĩ quan, 11 binh sĩ.
2. Tăng thêm lần thứ hai để lo cho 4 chiếc tàu. 7 binh sĩ.
3. Tăng thêm lần thứ 3 để lo cho 6 chiếc tàu. 5 binh sĩ.
4. Tăng thêm lần thứ tư để lo cho 8 chiếc tàu. 6 binh sĩ.
B. Toán huấn luyện lái tàu. Tùy thuộc vào số tàu và số thủy thủ Việt Nam mà tổ chức việc huấn luyện. Theo tiêu chuẩn thì cần hai sĩ quan và 10 binh sĩ cho mỗi chiếc tốc đĩnh (PTF).
C. Toán huấn luyện người nhái (SEAL). Gồm 2 sĩ quan, 10 binh sĩ.
D. Toán biệt hải. Gồm 1 sĩ quan, 3 binh sĩ.

Đến tháng 3/1964, nhân lực cho đơn vị SOG được tăng cường tạm thời 100 người, dựa theo bảng phân phối, gồm 97 quân nhân và 3 viên chức. Quân lực Mỹ cũng đóng góp một sĩ quan và 15 binh sĩ để huấn luyện quân biệt kích Việt Nam trong căn cứ Long Thành, Trung tâm huấn luyện nhảy dù và chiến tranh ngoại lệ dưới Vùng IV chiến thuật.


Khu vực ao cá Hồ Đào, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, 30/4/1968

Trong tháng 3/1964, chương trình huấn luyện gồm có cách mưu sinh, kỹ thuật vượt sông, chướng ngại vật, cứu thương, chiến thuật, sử dụng vũ khí, nhảy dù và thực tập.

Từ những ngày đầu sơ khai, MACV-SOG đã phát triển thành một đơn vị lớn với hơn 2.000 quân Mỹ và 10.000 lính địa phương. Năm 1971, sau trận Tổng công kích Mậu Thân, lực lượng SOG đã đi vào lịch sử và thành văn kiện trong Bộ Tổng tham mưu quân lực Hoa Kỳ. Huyền thoại về đơn vị SOG bắt đầu phơi bày ra ánh sáng qua những buổi bàn luận trong Quốc hội Mỹ.

Trong khi quân đội Mỹ và đồng minh bắt đầu rút quân, thì SOG chạy đua với thời gian để gây dựng Nha Kỹ thuật, một siêu đơn vị VNCH tương tự như đơn vị SOG.


Thủy quân lục chiến Quân đội VNCH tại ĐBSCL

Năm 1971-1972 MACV-SOG phải hoạt động với nhiều khó khăn, luật lệ, ngoại trừ việc xem xét nơi máy bay rớt hoặc cứu tù binh. Việc người Mỹ chỉ huy biệt kích xâm nhập qua đất Lào, Campuchia là chuyện quá khứ. Đơn vị SOG phải dựa vào những toán biệt kích do sĩ quan Quân đội VNCH làm trưởng toán, do Nha Kỹ thuật cung cấp.

Do SOG chuẩn bị cuốn cờ nên yêu cầu Không yểm trở nên khó khăn. Đến giữa tháng 2/1972, những cuộc hành quân khẩn được theo dõi từng chuyến một. Đến cuối tháng 3, đơn vị SOG không còn đủ sức để tổ chức hành quân nữa. MACV-SOG ngưng tất cả mọi hoạt động kể từ ngày 31/3/1972 và giải thể từ ngày 30/4/1972.

Trước khi chấm dứt hoạt động, SOG lập Toán 158, cố vấn cho Nha Kỹ thuật. Giai đoạn sau của SOG là trợ giúp cho Nha Kỹ thuật của Quân đội VNCH cho đến khi đơn vị này có thể hoạt động hữu hiệu. Toán 158 gồm 155 cựu nhân viên, quân nhân Mỹ đã làm việc trong đơn vị SOG trước đây.



Đoàn cố vấn nhiệm vụ đặc biệt (SMAG), một bộ phận phụ của Toán 158 gồm những quân nhân trong Liên đoàn 5, Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ lo về vấn đề phát triển, hiện đại hóa, huấn luyện Lôi Hổ Việt Nam về chiến tranh ngoại lệ, kỹ thuật trinh sát chiến lược và hành quân biệt hải. Đúng ra SMAG nên huấn luyện Nha Kỹ thuật từ năm 1967 khi họ đổi danh xưng từ Sở Khai thác địa hình thành Nha Kỹ thuật.

Trong ban an ninh của SOG có đơn vị Cảm tử quân đặc biệt (SCU). Đơn vị này làm rường cột cho những toán biệt kích SOG và Nha Kỹ thuật. SCU gồm phần lớn người thiểu số (77%). Đơn vị SOG còn thuê thêm một số người ngoại quốc, Việt Nam cho những nhiệm vụ khác như sửa chữa, bảo trì, thư ký hành chánh...
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiêu - P35




Cồn Thiên, 16/5/1967




Sài Gòn, 4/1975. Bến Bạch Đằng
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P36




(Phụ bản 2)

HÀNH QUÂN TRỰC THĂNG YỂM TRỢ BIỆT KÍCH (SOG/SES)




Tài liệu sau đây là bản báo cáo do sĩ quan hành quân gửi cho vị chỉ huy trưởng đơn vị Đoàn Nghiên cứu quan sát. SES là đơn vị Sở Khai thác địa hình VNCH.

Ngày 4/8/1964.
Về việc: Hành quân trực thăng yểm trợ SOG/SES.
Nơi nhận: Chỉ huy trưởng SOG.
Nơi gửi: Trưởng ban hành quân.

1. Tham chiếu:

a. Văn thư của MACV về việc: Kế hoạch hành quân, Việt Nam, ngày 25/3/1964, những cuộc hành quân sử dụng trực thăng thả biệt kích xâm nhập vùng phía nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.



b. Văn thư của tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương, số 000149 về việc: Kế hoạch hành quân, Việt Nam, ngày 18/4/1964, khuyến cáo không đồng ý sử dụng trực thăng xâm nhập vào Bắc Việt, vì lý do phi hành đoàn thuộc không lực VNCH không đủ khả năng thực hiện, ngay cả trong miền Nam nếu không có sự trợ giúp của Mỹ.

c. (Bị xóa) Có lẽ nói về kết quả những chuyến thả biệt kích ngoài Bắc. Hầu hết các toán biệt kích quân đều biến mất, không tìm ra dấu vết. Hành quân Leaping Lena do SOG điều khiển thả toán 6 quân nhân biệt kích thuộc Sở Khai thác địa hình dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, kết quả không may cho các toán biệt kích. Trong năm 1961, cơ quan CIA đã thả nhân viên, biệt kích ra ngoài miền Bắc, nhưng hầu hết đều bị bắt nên sau đó CIA chuyển sang tuyên truyền. Thả điệp viên ra ngoài Bắc với mật hiệu Footboy ít thành công nhất trong các nỗ lực của đơn vị SOG.



Footboy là một chương trình nhằm tuyên truyền cho một kế hoạch nổi dậy ở miền Bắc. Tin tức tình báo thu thập, cũng như vấn đề chuẩn bị hành động đã sẵn sàng, nhưng thực hiện rất ít, vì lý do rất có thể Bắc Việt sẽ tố cáo người Mỹ cố tình lật đổ chính quyền cộng sản.

2. Mục đích: Khơi nguồn các hoạt động giữa MACV và không lực VNCH để phát triển hiệu năng sử dụng trực thăng xâm nhập miền Bắc trước khi trả lời cho văn thư 1(b) và 1(c).

3. Bàn luận:

a. Văn thư 1(b) không đúng sự thật. Phi hành đoàn H34 thuộc không lực VNCH vẫn hành quân hàng ngày mà không có sự trợ giúp của Mỹ. Nhiều phi vụ thả biệt kích SOG/SES gặp trở ngại về địa điểm, thời tiết và quân đối phương. Năm 1961 và 1962, phi hành đoàn H34 không lực VNCH đã thả nhiều toán LLĐB xâm nhập những khu vực hẻo lánh bên Lào. Cố vấn không lực Hoa Kỳ cho rằng do được huấn luyện thêm về bay đêm nên phi hành đoàn H34 không lực VNCH có thể xâm nhập miền Bắc theo sự ước tính của SOG trong giai đoạn II.


Sư 25 Tia chớp nhiệt đới tại Củ Chi, 7/9/1968

b. Giữa MACV và không lực VNCH sẽ phối hợp phát triển khả năng bay đêm cho một số phi hành đoàn H34. Khả năng này được sử dụng (bị xóa). Hành quân (bí mật) trong lãnh thổ Nam Việt Nam cũng như yểm trợ hành quân cho SOG/SES. Trên thực tế (...) huấn luyện SES hoạt động trong đêm trong vùng đối phương kiểm soát nên được xác định rõ mục đích và hành động.


Đến cuối năm 1964, có nhiều dấu hiệu cho thấy miền Nam có thể sẽ bị sụp đổ.

Ngày 6/3/1965, bộ Tổng tham mưu quân lực Hoa Kỳ thông báo trên báo chí: Hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến sẽ được đưa sang Việt Nam, sau thỏa hiệp của hai chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ. Chính quyền Mỹ đã đồng ý theo sự yêu cầu của chính quyền Nam Việt Nam, đem hai tiểu đoàn TQLC sang đóng quân trong vùng Đà Nẵng để gia tăng vấn đề an ninh cho phi trường Đà Nẵng.


Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng

Nhiệm vụ giới hạn của TQLC nhằm để thay thế lực lượng Nam Việt Nam, hiện đang lo giữ an ninh trong chương trình bình định và trong vai trò tấn công du kích cộng sản.

Bản M.
Trung sĩ (...)
Phần hành quân Không vận sơ lược.
Trung sĩ (...), cố vấn phụ tá an ninh và cố vấn tình báo trại bị tử thương khi hành quân lúc 10h30’ ngày 16/11/1964. Một phần của tiểu đoàn đang lục soát vùng phía tây của (...). Đơn vị đang di chuyển theo hàng dọc, 20 người mỗi hàng. Trung sĩ (...), trong toán bị đối phương bắn súng tiểu liên khi băng qua khu vực có nhiều Việt Cộng. Trung sĩ (...) bị thương nặng trong loạt đạn đầu. Trong lúc chạm súng, Trung sĩ (...) trúng đạn ở vai trái. Quân Việt Cộng trong giao thông hào như lưới nhện. Hậu quả của trận bão, gây khó khăn cho trực thăng tản thương. (Tên bị xóa), viên phi công đã làm việc rất cừ khôi, mặc dù gió rất mạnh. Tù binh bị bắt khai rằng Việt Cộng chết 11 và bị thương 21 người trong trận chạm súng và miểng đạn súng cối 4.2 inch. Trung sĩ (...) đã được ân thưởng huy chương Ngôi sao đồng.


Pleiku, 1/2/1966. Sư 1 Kỵ binh bay đổ quân
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P37


(Phụ bản 3)
TÓM LƯỢC HÀNH QUÂN BIỆT HẢI



I. Tóm lược hành quân

1. Hành quân biệt hải của SOG, làm việc như hai ban tham mưu cho cơ quan Cố vấn Hải quân Mỹ (...)(*), Đà Nẵng, bắt đầu hoạt động bình thường trong tháng 2/1964 với những trận tấn công dùng người nhái xâm nhập vào (...), Bắc Việt tại tọa độ (...), đột kích bắt cóc tù binh, phá hoại miền Bắc ngày 16/2/1964. Sau đó là vài trận đột kích khác do người nhái thực hiện nhưng bị thất bại tại tọa độ (...), và hủy bỏ hai trận tấn công khác vào (...), Bắc Việt. Có tất cả 8 quân nhân thiệt mạng trong các trận đột kích kể trên.


Bờ Bắc sông Bến Hải

2. Mục tiêu đầu tiên trong chương trình đã soạn thảo trước là bắt sống những thuyền đánh cá ngoài miền Bắc. Các cuộc hành quân mang tên Lucky Dragon, Glynn Reef, Hải Cảng Tự Do rất thành công ngoài vĩ tuyến 17 ngày 27/5 (2 câu bị xóa). Ba toán tấn công liên tục, kết quả đã phá hủy nhà kho tại tọa độ (...). Ngày 12/6 phá hủy một chiếc cầu trên quốc lộ 1 trong vùng phụ cận tỉnh (...). Ngày 26/6, làm hư hại (...) và nhà máy bơm nước vào ngày 30/6. Vào ngày 26/6, cho hưởng quyền hồi chánh đối với 1 người miền Bắc tên là (...). Thuyền trưởng Swatow được đặt trên phao rồi thả ngoài hải phận (...) nhằm yểm trợ cho hoạt động tâm lý chiến “Hoạt động cám dỗ”.


Bờ Nam

3. Toán (...) thành công ngày 9&25/7. Một toán tấn công (...) đồn canh ngày 15/7, bị bỏ lại trong khu vực mục tiêu. Mất hai toán viên.
(Cuối năm 1963, Kế hoạch 34-63 được Tư lệnh Quân đội Mỹ phê chuẩn. Tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương ra lệnh cho hai cơ quan MACV và CIA ở Sài Gòn cố vấn, yểm trợ cho Nam Việt Nam trong một số hoạt động chống lại miền Bắc. Giai đoạn I của kế hoạch gồm những chương trình tâm lý chiến. Giai đoạn II là đột kích bất ngờ rồi rút lui. Phần sau gồm những trận đột kích tấn công thủy bộ, sử dụng Người nhái, Biệt động quân, Nhảy dù và Thủy quân lục chiến Việt Nam cho những mục tiêu chọn lọc phía nam vịnh Bắc bộ, nơi ít an ninh hơn. Có thể nói cố vấn Mỹ theo sát chân các đơn vị Nam Việt Nam trong những trận đột kích kể trên - Vũ Đình Hiếu).




Thủy quân lục chiến Mỹ tại khu vực DMZ, 1966

4. Trong tình trạng hành quân hiện thời, Hải quân đã gắn thêm súng cối 81 ly trên tốc đỉnh PTF-7 và PTF-8, mới nhận được (...). Ban cố vấn Hải quân đóng tại Đà Nẵng đã quyết định bắt đầu chương trình bắn phá yểm trợ cho Kế hoạch 34–A bằng cách sử dụng phân đội súng 57 ly trên boong các tốc đỉnh và sau đó sử dụng thêm súng cối 81 ly. Lần bắn phá đầu tiên vào ngày 30/7, do tốc đỉnh PTF-2 và PTF-5 đảm nhận. Sĩ quan chỉ huy hành quân là (...). Những cuộc bắn phá kể trên thành công lớn, gây nhiều tiếng nổ phụ, đối phương kháng cự tại tọa độ (...).


5. Trong tháng 7, MACV soạn chương trình cho tháng 7 và 8. Sở Phòng vệ duyên hải phối hợp tuần tiễu cho biết (...). Sở phòng vệ duyên hải hành quân biển cung cấp chính xác cho MACV về (...). Ngày 31/7, chiếc Desoto (tàu diệt lôi hạm) tuần tiễu, lấy tin tức ngoài hải phận Bắc Việt Nam vào vùng Hòn Chú, Hòn Mẹ, vịnh Bắc Bộ, làm phải thay đổi kế hoạch hành quân biển trong vòng 36 tiếng đồng hồ.


6. Những ngày dự trù bắn phá Vinh Sơn, Mũi Dao, Yên Phụ, đài radar Sầm Sơn, trạm an ninh được điều nghiên chắc chắn và bị tấn công vào ngày 3/8. Tốc đỉnh PTF-6 báo cáo có nhiều đám cháy sau khi rút khỏi (...). Trận bắn phá do kết quả của(...) do hai tốc đỉnh PTF-2 và PTF-5 (...). Đài radar sẽ không hoạt động tối thiểu 5 ngày. Trong trận này (...) Desoto đang tuần tiễu nơi hướng bắc (...), để đảm bảo không gây trở ngại cho biệt hải. Theo lời yêu cầu của Tư lệnh MACV, không được xuống dưới vĩ tuyến 19 trong đêm 3 và 4/8

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P38


7. Cuộc truy kích của tàu phóng thủy lôi Bắc Việt chống lại Desoto tuần tiễu đêm 4/8, chứng tỏ họ đã sẵn sàng chờ đợi trận thư hùng trong vùng Vịnh Bắc Bộ. Theo mệnh lệnh của tư lệnh Quân đội Mỹ, không có hoạt động trên biển Bắc Bộ trong vòng 2 tháng.


(Ngày 2/8/1964, chiến hạm Maddox bị tàu phóng thủy lôi tấn công trong vịnh Bắc Việt, trong khi tuần tiễu trong vịnh, ngoài hải phận miền Bắc Việt Nam. Vài chiếc tàu bị đánh chìm.

Ngày 4/8/1964, chiếc Maddox và C. Turner Joy bị tấn công như trong ngày 2/8. Sau nhiều lần xác định vụ tấn công, Tổng thống Johnson cho phép không tập trả đũa miền Bắc. Nhiều sử gia đã nghi ngờ từ lâu MACV/SOG với kế hoạch 34-A đã hành quân biệt hải trong vịnh Bắc Việt, làm cho Bắc Việt trả đũa, tấn công tàu Maddox. Họ cũng nghi ngờ trận tấn công thứ hai vào ngày 4/8/1964 là không có thực. Ngày 7/8/1964, tổng thống Johnson tường trình với các lãnh tụ trong Quốc hội và được sự ủng hộ chính sách của chính quyền Mỹ, được cả hai viện chấp thuận với đa số. Nghị quyết Vịnh Bắc Việt, không phải bản tuyên chiến, có hiệu lực đưa quân Mỹ vào trận chiến, kết quả là 58.000 người Mỹ tử trận trong vùng Đông Nam Á. Năm 1973, khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, hơn hai triệu rưỡi người Mỹ đã đặt chân lên Việt Nam – Vũ Đình Hiếu).


Thanh nữ cộng hòa

Để bảo vệ tàu bè tránh sự trả đũa của đối phương tại (...), các bộ phận không/ hải quân theo lệnh ban hành ngày 4/8 ngay tức khắc (...). Vịnh Bắc Việt có đụng độ, 8 tốc đỉnh PTF được lệnh ra Ban Cố vấn hải quân Đà Nẵng vào ngày 5/8 để phối hợp Việt – Mỹ gồm sĩ quan Việt Nam, chỉ huy hành quân tên (...) và cố vấn trưởng tên (...). Tất cả đặt dưới quyền của sĩ quan chỉ huy hành quân biển thuộc đơn vị SOG là Trung tá (...) cùng sĩ quan liên lạc tên (...). Tất cả tàu bè quay trở về Đà Nẵng vào ngày 10/8.

8. Trong tháng 8, tư lệnh Quân đội Mỹ ra lệnh thử nghiệm đại bác không giật 106 ly, được gắn trên tốc đỉnh PTF để sử dụng tấn công những mục tiêu trên bờ nằm ngoài tầm súng cối 81 ly. Vật liệu do (...) cung cấp. Kết quả thử nghiệm cho thấy không tốt vì sức nổ của súng gây hư hại cho tàu PTF, sự việc được báo cáo cho tư lệnh Quân đội Mỹ. (Năm 1971, SOG gắn hỏa tiễn 122 ly của đối phương trên tốc đĩnh PTF, có thể bắn hai chùm 4 quả trong vòng 15 phút vào mục tiêu cách xa 11 km – Vũ Đình Hiếu).


Tướng độc nhãn Moshe Dayan, Tham mưu trưởng Quân đội Israel, tại Đà Nẵng ngày 1/8/1966


9. Ngày 12/8, Tư lệnh lực lượng Thái Bình Dương yêu cầu Tư lệnh Hạm đội 7 cho máy bay yểm trợ hành quân biển trong vùng (...), Bắc Việt. Sử dụng phi cơ AC-121 của Hạm đội 7 trong khu vực (...). Kế hoạch được soạn thảo bởi Hạm đội 7 và SOG, nhằm phối hợp hành quân trong hai ngày 28 và 31/8. Trong thời gian này, 2 bên phát triển thủ tục liên lạc, mật hiệu cầu cứu khẩn giữa Hạm đội 7 và tàu bè của SOG. Đặc lệnh truyền tin được SOG sử dụng ngày 23/8, cùng với đặc lệnh truyền tin do ban cố vấn Hải quân đề ra cho Sở Phòng vệ Duyên hải ngoài vùng I.

10. Ưu tiên cao hơn được quyết định về Không lực VNCH phụ cho Không lực Hoa Kỳ yểm trợ hành quân biển tại (...). Theo đó, Ban cố vấn Hải quân gắn máy truyền tin ARC-27 trên tốc đĩnh PTF để liên lạc với khu trục A1H, và huấn luyện chung với phi cơ A1H thuộc Không lục VNCH do phi cơ C-123 của SOG chỉ huy.


Thủy quân lục chiến Mỹ tại Huế, 13/2/1968

11. Trong cuối tháng 8, một tai nạn nổ hỏa tiễn xảy ra làm một người nhái SEAL bị thương tại (...), khến cho Lực lượng Thái Bình Dương bắt đầu phụ giúp SOG trong việc phát triển, thử nghiệm các loại vũ khí dùng cho hành quân.

12. Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ cho phép hành quân biển trở lại, và yêu cầu cho biết thời khóa biểu trước ngày 12/9. Trong 5 ngày, kế hoạch hành quân (...) đã được sắp xếp hoàn tất vào ngày 17/9. MACV/SOG trình lên 8 cuộc hành quân sẽ thực hiện trong 13 ngày, bắt đầu lúc 23 giờ sau ngày (...), Desoto hết hạn tuần tiễu trong vùng vịnh Bắc Bộ vào ngày 22/9.


Hà Nội, 1972. Các sĩ quan quân đội VNCH bị bắt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại buổi họp báo

13. Kế hoạch 34-A hành quân biệt hải bị đình trệ do thời tiết và ngày 21/9, tất cả các tốc đĩnh PTF di chuyển đi (...) để tránh trận bão Tilda, trở lại vào ngày 23/9. Kế hoạch hành quân 34-A bị đình lại vô hạn định. Hành quân biệt hải có tên là Vinh Son vào ngày L bị đình trệ do trận bão Anita, cuối cùng được thực hiện vào ngày 3/10
NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P39




Thời khóa biểu cho tháng 10

Thám sát Ngày L (4/10) Xâm nhập cách Vinh Sơn 12 dặm
Thám sát Ngày L+2 (10/10) Xâm nhập cách Vinh Sơn 3 dặm
Loki IV Ngày L+5 Bắt cóc tàu bè thất bại.
32 & 35E Ngày L+8 (28, 29/10) Bắn phá đài radar Vinh Sơn và đài quan sát Mũi Dao


Y tá Julie Klebaum tại Pleime, bên trái là Đại úy Tom Pusser, người bị giết không lâu sau đó

Thời khóa biểu cho tháng 11

34 B Ngày L+12 (4/11) Bắn phá doanh trại trên Hòn Mật và Đảo Hổ
L+13 Bắt tù binh do toán biệt hải trên tốc đĩnh PTF.
L+15 Bắt tàu đánh cá.
L+19 Bắn phá Mũi Ròn và đảo Hổ.
L+25 Bắn phá Yên Phụ và đài radar Sầm Sơn.
L+28 Phá nổ cầu trên Quốc lộ 1 và bắn phá Mũi Dao
L+30 Trả những người bị bắt cóc từ ngày L+15
L+31 Bắn phá Hòn Ne và Hòn Me.
L+36 Phá nổ cảng tại Phúc Lợi và bắn phá Hòn Ngự
L+38 Cắt đường ray xe lửa Hà Nội – Vinh.
L+41 Bắn phá Đồng Hới và Đảo Hổ
L+42 Bắn phá đảo Nightingale.



14. Theo đề nghị của Tư lệnh lực lượng Thái Bình Dương, vấn đề huấn luyện phải có chương trình, kế hoạch rõ ràng. Trong chuyến thăm viếng Ban cố vấn Hải quân của Đại tá (...), Ban cố vấn Hải quân hứa sẽ cung cấp phương tiện cho thủy thủ đoàn các tốc đĩnh PTF. Sở Phòng vệ duyên hải đã thảo xong thủ tục liên lạc khẩn cấp và sẽ áp dụng kể từ ngày 4/10.

15. Các chương trình hành quân biệt hải trong vòng một, một tháng rưỡi sẽ thông báo cho tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ theo thời gian ấn định sẵn theo sự yêu cầu. tất cả mọi cuộc hành quân đều phải có sự chấp thuận của tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ, dựa trên kết quả của cuộc hành quân trước.



16. Việc bảo trì tốc đỉnh PTF bị đình lại. MACV/SOG phải được sự chấp thuận của cơ quan MACV. MACV/SOG đưa chương trình bảo trì tốc đĩnh PTF, được sự trợ giúp của tư lệnh Hạm đội 7, chương trình bảo trì tiếp tục.

17. Sau khi hủy bỏ vài chuyến hành quân mang tên(...), ngày 10/10 bắt được (...) (10/10 xâm nhập cách Vinh Sơn 3 dặm. 15/10 bắt có tàu đánh cá thất bại – Vũ Đình Hiếu). Kế hoạch bắn phá bị dời lại, lý do: vì thời tiết xấu nên nhận diện ảnh bị sai, tưởng lầm tàu đánh cá là tàu phóng thủy lôi. Thực hiện phi vụ bắn phá đài radar Vinh Sơn và đài quan sát Mũi Dao thành công vào ngày 28/10.


Đại tá Phạm Ngọc Thảo (ngồi), nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim "Ván Bài Lật ngửa",
ngày về Sài Gòn, 2/1965 tham gia đảo chính


18. Lấy lợi thế chu kỳ vài ngày là có thời tiết tốt trong mùa mưa vùng đông bắc, hành quân biệt hải hoạt động tốt theo đúng kế hoạch. Các cuộc hành quân bị giới hạn (...) do công điện nhận được từ chỉ huy cao cấp, lo sợ khả năng phản ứng của Bắc Việt.

19. Coi lại các chuyến hành quân biệt hải, MACV/SOG yêu cầu thông báo thủ tục khẩn cấp đến những đơn vị khác trong đó có Không lực Thái Bình Dương.

20. MACV/SOG thực hiện trận đánh phá bao gồm 6 tốc đỉnh PTF tại (...) vào ngày 26/11, và dùng 4 tốc đỉnh bắn phá (...) ngày 27/12 và đài radar (...) ngày 8/12.


Phù Cát, 5/1/1967. Lính Sư 1 Kỵ binh bay kiểm tra chiến trường sau trận đánh

21. Kế hoạch bắn phá Quảng Khê bị hủy bỏ trong vùng mục tiêu do đối phương đã chuẩn bị lệnh hành quân ngày 1/12 và do ngày 22/12 thời tiết xấu. Tháng 12, thời tiết xấu do trận bão.

22. MACV/SOG yêu cầu sự hiện diện của các chiến hạm Hải quân Mỹ đã cải trang để chống lại Bắc Việt trên phương diện (...) cho các hoạt động chiến tranh tâm lý, khi điều kiện thời tiết không phù hợp cho hành quân biệt hải.

23. Chấp thuận (...) bắt sống tàu đánh cá. Yêu cầu cho phép Hải quân VNCH tấn công những tàu Bắc Việt đang thả neo hoặc bị hư hại gần bờ biển. Được chấp thuận.

24. Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ đưa ra hai văn kiện về mục đích hành quân. Văn kiện 1 áp dụng từ ngày 15/12 đến 15/1. Văn kiện 2 cho giai đoạn kế tiếp, có thêm phần không yểm bởi 4 đến 6 phi cơ Mỹ phồi hợp hành quân.


25. Tư lệnh Quân đội Mỹ thông báo sẽ cứu xét chương trình hành quân mỗi ngày cho đến khi thời tiết tốt.

26. MACV/SOG đồng ý Hạm đội 7 có thể giảm độ khẩn thủ tục cầu cứu

No comments:

Post a Comment