Vào
năm 1964, toán A LLĐB, A-323 12 quân nhân thuộc Liên Đoàn 1 Lực Lượng
Đặc Biệt đang đồn trú ở Machinato, Okinawa. Trời chưa sáng, chúng tôi
lên hai xe vận tải, phủ tấm bạt bạt che kín đưa vào căn cứ Không Quân
Kadena gần đó. Tại đây, chúng tôi được đưa vào một khu cấm trong phi
trường. Sau đó, đưa lên một máy bay vận tải C-123 Hercules, và vài phút
sau, chiếc phi cơ quân sự cất cánh bay đi Việt Nam.
Khi
trời vừa sáng, chiếc phi cơ đang bay dọc theo bờ biển Miền Nam Việt Nam
để đáp xuống phi trường Đà Nẵng. Nhìn qua cửa sổ phi cơ, bãi biển Đà
Nẵng rất đẹp, từng gợn sóng từ xa chạy vào bờ. Tôi không ngờ một điạ
điểm lý tưởng cho nghỉ hè, surfing mà trên một quốc gia đang có chiến
tranh.
Chúng
tôi được lệnh xây dựng một trại LLĐB ở Khe Sanh, trong góc tây bắc của
miền nam. Vị trí để thiết lập căn cứ trên một vùng đất phẳng, nằm dưới
bóng tối khu phi quân sự, hướng đông bắc của một trại lính cũ người Pháp
xây trước đây trên một ngọn đồi nằm về phiá đông làng Khe Sanh. Chúng
tôi sẽ xây tạm một căn cứ để theo dõi đường số 9 trong khi căn trại
chính đang được xây cất.
Trên
vùng bình nguyên Khe Sanh, đầy những cỏ tranh gọi là cỏ voi (elephant
grass) cao hơn đầu người, chỉ có một vật duy nhất nổi bật lên, đó là phi
đạo dài 3900 bộ làm bằng vỉ sắt PSP.
Trại
Lực Lượng Đặc Biệt xa nhất về phiá bắc, giáp với miền bắc Việt Nam là
trại Khe Sanh, chỉ cách biên giới Lào-Việt vài dặm. Chúng tôi biết rằng,
địch quân có lẽ đang theo dõi các việc làm của chúng tôi thường xuyên.
Nhưng đó cũng là lý do cho sự hiện diện của toán A LLĐB/HK trong khu vực
này.
Địch
quân đặt điểm quan sát trên rặng rúi cao Dong Voi Mep hay núi Răng Cọp,
có thể cao hơn 7750 bộ, để theo dõi chi tiết mọi hoạt động của chúng
tôi. Trận chiến “bí mật” đang đến hồi sôi động mà chúng tôi là một phần.
Ngoài
việc xây dựng căn cứ Khe Sanh, toán A-323 LLĐB chúng tôi còn gánh thêm
nhiệm vụ, theo dõi khu vực ba biên giới: bắc, nam Việt Nam và Lào. Cơ
Quan Trung Ương Tình Báo CIA từ trước đã có những cố gắng tuyển mộ người
Thượng để theo dõi khu vực biên giới.
LLĐB
có phương pháp khác hơn, chúng tôi sẽ gom họ lại trong những căn cứ,
với những pháo đài, hầm hố, chiến hào, công sự phòng thủ chắc chắn, đủ
sức chống lại một trận tấn công của địch.
Tại
mỗi góc của căn cứ, chúng tôi sẽ xây những pháo đài kiên cố, đủ chỗ cho
năm khẩu đại liên và hầm đạn ngầm dưới mặt đất. Một hệ thống giao thông
hào chạy xung quanh chu vi phòng thủ căn cứ, nối các vị trí chiến đấu
với nhau. Chúng tôi làm việc ngày đêm để hoàn thành sớm.
Trại
LLĐB có một trung đội lính đánh thuê người Nùng, để bảo vệ cho toán A
LLĐB ở Khe Sanh. Họ là những chiến sĩ xuất sắc, được trả lương cao hơn
nhiều so với Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu và QL/VNCH.
Người
Thượng sinh sống trong vùng rừng núi Khe Sanh thuộc sắc tộc người Bru.
Họ được tuyển mộ vào lực lượng DSCĐ cấp tiểu đoàn, trấn đóng trong trại
LLĐB Khe Sanh. Người Bru cũng như các đồng bào sắc tộc thiểu số khác thờ
thần linh, nhất là thần Yang, một vị thần tuyệt đối trong sự tín ngưỡng
của họ.
Thần
Yang có thể hiện hữu trong thiên nhiên, trong cây cỏ, loài vật, đá,
sông, núi v.v... Sự sợ hãi, ám ảnh về linh hồn người chết, thể hiện qua
những cơn ác mộng có ảnh hưởng lớn đến nếp sống hàng ngày, cũng như sự
hiện hữu của họ.
Tất
cả mọi thiên tai, xui xẻo lớn hay nhỏ, họ đều đổ thừa cho linh hồn
người chết. Trên đường hành quân, người Bru để ý đến sự hiện diện của
các loài vật khác như chim chóc, khỉ, hoặc hươu nai và đặt biệt Ông Cọp.
Tuy nhiên, linh hồn của bầu trời vẫn được để ý đến nhiều nhất vì đó là
khởi nguồn cho những chuyện ma quái.
Một
bộ lạc người Thượng khác nằm về phiá nam, dọc theo đường ranh giới khu
vực trách nhiệm của chúng tôi thuộc sắc dân Tầu Ôi, họ sống trên vùng
núi non. Về phiá đông nam chúng tôi còn có người Pa Cô.
Cách
trại LLĐB Khe Sanh một khoảng ngắn về hướng tây, những đơn vị cộng phỉ
Bắc Việt làm việc hăng say để phát triển một hệ thống đường tiếp vận
phức tạp gọi là đường mòn hcm. Nhờ vào hệ thống đường mòn này, bọn cộng
phỉ Bắc Việt đưa người, vũ khí, đồ tiếp vận vào xâm lăng ăn cướp Miền
Nam Việt Nam.
Hệ
thống đường mòn dài 8000 dặm này phần lớn đi ngang qua vùng rừng núi
hiểm trở. Tùy theo nhiệm vụ, khu vực hoạt động, nhiều đơn vị Bắc Việt
phải mất vài tuần, có khi vài tháng mới vào đến miền nam.
Với
hệ thống đường mòn phức tạp, bọn phỉ quân bắc việt cần phải có một đơn
vị tương đương với hai sư đoàn để bảo vệ. Ngoài hàng ngàn dân công, hệ
thống đường mòn hcm cần phải có thêm những trạm nghỉ, những khu vực canh
tác để cho những đơn vị từ bắc vào tạm dừng chân, nghỉ dưỡng sức trước
khi tiếp tục cuộc hành trình xâm lược và ăn cướp Miền Nam.
Trong
năm 1964, ước chừng khoảng 18000 phỉ quân chính quy bắc việt đã xâm
nhập bất hợp pháp vào nhiều nơi trong lãnh thổ thuộc về chủ quyền của
Miền Nam Việt Nam. Đó cũng là nhiệm vụ của chúng tôi “Biên Phòng”, theo
dõi, ngăn chặn các cuộc chuyển quân, đồ trang bị, tiếp liệu của địch
trên hệ thống đường mòn hcm xâm lăng Miền Nam Việt Nam.
Ít
lâu sau khi chúng tôi đến, một hôm đến phiên tôi làm nhiệm vụ đi tuần
tiễu. Chúng tôi sẽ di chuyển dọc theo biên giới Lào-Việt khoảng hai mươi
cây số về hướng nam, bắt đầu từ Lang Vei trên đường số 9. Rất may, cùng
đi với tôi có Trung Sĩ Nhất Ratchford P. Haynes, một quân nhân chuyên
nghiệp, đã từng phục vụ trong toán Sao Trắng, huấn luyện lưu động cho du
kích quân người Hmong (Mèo).
Chuyến
qua Việt Nam lần này, anh ta đảm nhận nhiệm vụ liên lạc viên chính. Tôi
lúc nào cũng cảm thấy an toàn đi chung với Haynes vì anh ta lúc nào
cũng trầm tỉnh, sáng suốt và rất tự tin. Một người nắm vững tình hình
khi gặp trở ngại.
Trước
khi đi, chúng tôi thanh tra toán DSCĐ Bru xem họ có đem theo đầy đủ
súng ống, đạn dược... Người nào cũng có gương mặt rắn rỏi, dạn dầy sương
gió, đôi vai nở nang và rất khỏe. Một điều làm tôi để ý là họ lúc nào
cũng vô tư, mỉm cười, coi chuyện chiến tranh là khôi hài. Vài người có
vết xâm trên mặt, xỏ lỗ tai, cà hàm răng trên. Họ nhỏ con hơn người Hoa
Kỳ, chịu khó học hỏi.
Hành quân
Chúng
tôi đi băng qua khu đồng trống, cỏ voi rất cao, trải dài bao phủ những
dẫy đồi, đến lưng chừng một rặng núi có sương mù, cao hơn 5000 bộ
(feet). Loại cỏ voi cao hơn đầu người, che chở đoàn quân di chuyển. Cuối
cùng chúng tôi lên tới đỉnh núi, ra khỏi khu vực đồng trống với cỏ voi,
đến một khu rừng núi rậm rạp. Chúng tôi nghe tiếng chim hót líu lo, có
lẽ chúng bận rộn đi tìm thức ăn.
Những
người Bru nhìn mấy com chim chăm chú, xem chúng bay về hướng nào. Tôi
hỏi họ và được trả lời, nếu mấy con chim bay về hướng bên phải, đó là
điều tốt, còn về bên trái đó là điềm xấu, nguy hiểm đang ở đằng trước.
Nếu sự tin tưởng của người Bru đúng, lập tức họ sẽ quay trở lại Khe
Sanh.
Những
cây lớn trong cánh rừng cao hơn 80 bộ, làm thành một lớp màn xanh che
khuất bầu trời. Lớp thứ hai cao khoảng 50 bộ trên đầu chúng tôi. Hai lớp
màn lá cây không cho đủ ánh sáng lọt vào, làm hơi tối, chúng tôi di
chuyển trong bóng mát cả ngày.
Đoàn
quân leo lên, leo xuống những triền núi, dọc theo dấu con đường mòn,
băng qua những con suối nhỏ, nước lạnh như băng đá. Lúc nào trên đầu
cũng có chim hót hay tiếng của những con khỉ, hoặc côn trùng. Thỉnh
thoảng nghe tiếng kêu khô khan, ngắn của loài hưu nai. Dần dần chúng tôi
quen đi.
Vào
một buổi xế chiều, chúng tôi được ngắm cảnh mặt trời lặn nơi rặng núi
hướng tây. Mầu xanh của lá cây, núi rừng từ từ bị bóng tối che khuất khi
mặt trời biến đi nơi cuối đường chân trời. Đó là khung cảnh tuyệt đẹp,
khó quên.
Sáng
hôm sau, chúng tôi được chứng kiến, những làn sương sớm dưới thung lũng
tan biến đi trước những tia nắng ấm áp của mặt trời. Chúng tôi trông
thấy rõ giòng sông Sê Pôn (Sepone) uốn quanh co, như một con rắn khổng
lồ mầu đen dưới chân núi.
Ngày
nào cũng tôi cũng lục xoát trong khu rừng âm u, tìm dấu vết của địch
quân. Chúng tôi đang ở trên một cao độ, thở hít không khí trong lành của
thiên nhiên, không như lớp không khí ô nhiễm ở dưới vùng bình nguyên có
người sinh sống.
Dấu vết địch quân
Chúng
tôi biết, có người ở đằng trước lộ trình chúng tôi đang đi. Dấu vết
trên đường mòn và những nét khắc trên cây bằng dao. Những dấu hiệu để
lại như cảnh cáo chúng tôi đang đi vào cõi chết nếu tiếp tục đi sâu vào.
Nhiệm vụ thúc đẩy tôi tiến lên, lúc đó chỉ sợ nghe tiếng kêu khác lạ
của thú rừng.
Tiếp
theo, chúng tôi được nhìn dấu hiệu “tử điạ”, sọ người với hai khúc
xương bắt chéo khắc trên một thân cây lớn. Nhìn thấy dấu hiệu, mọi người
đều lạnh cẳng, phát sốt phát rét. Một người đầy kinh nghiệm như Haynes
cũng khuyên tôi không nên tiến sâu thêm.
Phiá
bên kia đường mòn, một người Bru phám phá ra phân người, có ruồi bâu
lại chứng tỏ người này đã có mặt trong khu vực cách lúc đó không lâu.
Viên sĩ quan LLĐB Việt Nam cũng cho biết, có lẽ bọn lính Bắc Việt đang
lẩn vẩn trong khu vực
Toán
tiền sát dẫn đường báo cáo tìm thấy một trạm nghỉ, dừng chân của địch
nằm bên kia biên giới Lào-Việt bên bờ sông Sê Pôn. Binh trạm của địch có
ba dẫy nhà dài và một số căn nhà nhỏ nằm ẩn sau tàng cây cao dọc theo
bờ sông. Không rõ vì lý do nào, tất cả địch quân đang ở chung trong một
dẫy nhà dài và đang ca hát, vẫn chưa biết đã bị toán tiền sát khám phá.
Khi
cả toán tuần tiễu kéo đến, dường như địch quân đang có buổi họp trong
căn nhà dài. Dọc theo bờ sông không thấy vọng gác, cũng như địch quân
đang canh gác, do đó chúng tôi sẽ tiến vào từ hướng đó
Sau
khi quan sát mục tiêu, xác định tình thế, chúng tôi quyết định sẽ gài
lựu đạn bẫy trong khu vực, đặc biệt dẫy nhà dài nơi đang có buổi họp.
Sau khi xắp đặt toán an ninh bên bờ hướng đông sông Sê Pôn, tôi ra lệnh
cho một toán đi tìm một “điểm hẹn” để sau khi thanh toán xong đám địch
quân trong binh trạm, sẽ về điểm tập trung phòng thủ qua đêm. Tiếp theo
tôi chọn hai binh sĩ có nhiều kinh nghiệm xâm nhập vào binh trạm của
địch gài lựu đạn bẫy.
Đến
xế chiều, toán nằm giữ an ninh báo cáo tình hình vẫn yên tĩnh, hai
người lính Bru di chuyển xuống bờ suối cạn, xâm nhập vào khu vực “cấm
điạ” của địch. Những giây phút nặng nề rồi hai người lính quay trở về
báo cáo đã gài xong lựu đạn. Lúc đó tôi có thể ra lệnh tấn công nhưng
lại thôi, cả toán tuần tiễu lặng lẽ di chuyển về điểm hẹn, tổ chức phòng
thủ đêm.
Qua
ngày hôm sau, binh sĩ đi đầu báo cáo cho biết, trông thấy có người
(địch) băng qua khúc sông cạn Sê Pôn. Anh ta ra thủ hiệu có địch. Chúng
tôi vội vàng dừng lại, tổ chức phục kích. Các binh sĩ DSCĐ Bru tỏ vẻ
khích động. Ông bạn LLĐB/VN dành cho tôi bắn phút súng lệnh, khi địch
quân đã vào đúng ổ phục kích, Mạch máu tôi chạy nhanh hơn, chờ đợi đám
địch quân xuất hiện.
Cuối
cùng, đám tuần tiễu của bọn cộng phỉ xuất hiện. Mấy tên dẫn đầu có vẻ
cẩn thận, nghi ngờ. Bọn chúng di chuyển rất chậm, quan sát kỹ càng trước
khi cả toán di chuyển lên. Lúc đó tôi đã rõ ý định của toán tuần tiễu
của địch, chúng đang chuẩn bị băng qua sông, chỉ cách điạ điểm phục kích
khoảng 50 thước.
Điều
làm tôi ngạc nhiên, khi ra đến bờ sông, địch quân không còn giữ đội
hình nữa, thản nhiên đeo súng trên lưng, rồi cứ tự nhiên lội qua.
Theo
linh tính tôi coi lại khóa an toàn của khẩu súng, rồi tiếp tục quan
sát, cho đến khi trông thấy người cuối cùng trong toán địch bước xuống
giòng sông. Tôi nâng khẩu súng lên chọn mục tiêu, nhìn quanh, các binh
sĩ người Bru cũng đã sẵn sàng nhả đạn.
Một
phát súng nổ vang rồi cả toán tuần tiễu LLĐB đồng loạt khai hỏa dữ dội
vào bọn địch. Tôi trông thấy những xác những tên giặc cướp cộng phỉ bắc
việt trúng đạn ngã vật xuống sông, mấy tên khác vội đưa tay lấy súng từ
lưng cũng bị trúng đạn bật ngửa. Một khúc sông Sê Pôn nhuộm màu máu đỏ.
Có mấy tên bị thương kinh hoàng tháo chạy qua được bên này sông cũng bị
các binh sĩ Bru bắn chết.
Trận
phục kích kết thúc nhanh chóng trả lại yên tĩnh cho núi rừng. Toán quân
của địch kẹt đúng lúc đang ở giữa giòng sông, không một tên nào chạy
thoát. Bây giờ vấn đề tôi phải lo là làm sao quay trở về để tránh bị đơn
vị lớn của địch truy kích, trả đũa. Tôi chỉ thị người đi bọc hậu phải
báo động nếu phát giác ra địch quân đuổi theo.
Để
tránh trường hợp bị phục kích ngược trở lại, tôi chọn đường về xa hơn.
Chúng tôi đi sâu vào trong vùng rừng núi, không dọc theo biên giới như
lộ trình lúc đi. Đến khi gặp một giòng sông, sẽ đi ngược lên hướng bắc
sẽ đến làng Bru Hương Hoa, nơi phiá nam đường số 9. Tôi gọi máy báo cáo
lên chiếc máy bay quan sát, yêu cầu tiếp tế lương thực và đạn dược.
Ngày
hôm sau, chúng tôi khám phá một miếng vườn, đã được khai quang để trồng
trọt. Ai đó đã làm những công việc này, trồng khoai, rau cỏ, và người
này phải ở gần đây. Tôi ra lệnh lục soát khu vực xung quanh, tìm ra một
trạm nghỉ khác của địch, có vài căn chòi lá nhưng không có người.
Khu
vực này được một gia đình người Thượng trông nom, gồm một đàn ông,
người đàn bà đang mang bầu và một đứa bé trai bị tật nguyền, què chân.
Chúng tôi nói họ phải đi với chúng tôi đến Khe Sanh để thẩm vấn... Những
người Thượng đơn sơ mộc mạc không có vẻ gì chống đối... không biết họ
có hiểu những điều tôi nói không? Chúng tôi tiếp tục di chuyển theo
giòng sông, ngược lên phiá bắc.
Khi
chúng tôi trở về đến Khe Sanh, các bạn đã chờ sẵn cho tôi biết Hà Nội
Hannah (đài phát thanh Hà Nội) đã đọc bản tin tức về toán tuần tiễu LLĐB
ở Khe Sanh đã làm gì trong mấy ngày vừa qua.
(Sài
Gòn trong tôi/ Posted by Hoàng Thái Sơn/ Theo tài liệu:
Charles A
McDonald, “Border Surveillance”, Behind the line magazine, trang: 43-51)
No comments:
Post a Comment